TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap II B)

Friday, December 16, 2005

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập II B 11)

Tệp 11 - Tập II Blog B
(PHÂN ĐOẠN 3, TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Sẽ đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 12-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm


TRẦN XUÂN AN

CUỘC CHIẾN NGOẠI GIAO
VÀ NGOẠI THƯƠNG


Truyện kí thứ tám
(phân đoạn 3)

8

Thượng thư Bộ Hình, đại thần Viện – Bạc, cũng là quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường bàn luận tình hình, công việc và sau đó tuân chỉ dụ của vua, viết văn thư cho Phủ súy Pháp tại Gia Định (60). Trong bản văn thư tháng ba nguyệt lịch này, ông chỉ nêu lên bốn vấn đề:
1. Yêu cầu Pháp tiễu trừ giặc biển từ Bình Thuận đến Hải – Yên (theo “hoà” ước).
2. Yêu cầu Pháp cho khách thương buôn gạo Nam Kì ra Bắc Kì, vì ở miền ngoài, dân đang thiếu đói.
3. Không nên căm thù Lưu Vĩnh Phúc, Lưu cũng như Françis Garnier.
4. Chưa có thể cho tàu thuyền thông thương lên Vân Nam, vì thương ước chưa có hiệu lực thi hành (thời hiệu) (60).
Với yêu cầu thứ hai, quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường gián tiếp khẳng định sẽ không thể nào “bồi thường” như các giám mục, linh mục Nghệ – Tĩnh và chánh, phó sứ Brossard de Corbigny, Regnault de Premesni kêu đòi! Yêu cầu ấy, còn oái oăm, bi kịch là ở chỗ khác nữa: vựa lúa Nam Kì vốn nuôi sống cả Trung Kì, có thể trợ cấp cho Bắc Kì, nhưng nay đành phải yêu cầu ở Pháp chở ra để bán cho Bắc Kì thiếu đói!
Một yêu cầu khác, văn thư lần này cũng xác định Lưu Vĩnh Phúc đã quy phục, được xem như thần tử (tôi con) trong nước (mặc dù vẫn là “hiệp sĩ phi chính phủ, hành đạo trừ tà”, “ngoài vòng cương toả”); “nay “hoà” ước đã định, đều bỏ hết chớ ngờ để khỏi sinh hiềm khích” (60).
Và hậu quả chua xót cũng là kết quả “lật tẩy” thắng lợi từ cuộc Pháp gây biến Bắc Kì vẫn còn phải giải quyết tiếp. Triều đình phải trị tội bọn quan lại của ta tự “lật tẩy”, trơ trẽn phô bày thói cơ hội “theo gió xoay buồm” khi giặc Pháp khích hấn, xâm lược và bốn tỉnh thất thủ. Đó là tên tri phủ Kiến Xương Đào Trọng Kỳ (61) (người xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, kẻ làm xấu hổ quê hương Trạng Trình! (62)); hai tên khác là quan võ, đều sung làm hiệp quản, Lê Đình Quyên và Nguyễn Văn Quy (61). Đồng thời, tiếp tục khen thưởng nhiều xã, như Trung Năng thuộc huyện Phổ An, Bá Vân thuộc huyện Đại Từ, đều ở tỉnh Thái Nguyên, tự đem quân đoàn luyện (hương binh) chống bọn phỉ và có khả năng chống cả bọn Pháp, khiến chúng không thể đánh chiếm được các huyện, làng ấy.
Việc ở Bắc Kì còn thêm nặng nề khi bước vào tháng tư năm Ất hợi này, ấy là đê Văn Giang lại vỡ! Thế là nạn đói lại đe doạ, nạn đói mà quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường mới viết thư yêu cầu Pháp phải chở gạo ra bán! Lãnh tuần vũ Nghệ An Vũ Trọng Bình mới được chỉ dụ về kinh nhận chức tả tham tri Bộ Lại với lời khen của vua, “để đem thói [:đức tính] liêm chính sẵn có, làm phép cân nhắc, chắc được xứng chức” (63) như Nguyễn Văn Tường năm nào dâng sớ đề nghị, nhưng, tiếc thay, vì vỡ đê Văn Giang là việc khẩn cấp, ông lại tất tả ra ngoài ấy “phát chẩn và sửa đê điều cho vững” (63).
Và bi kịch Ông Ích Khiêm lại xảy ra!
“[Vua] sai giải [giao] nguyên quyền tán tương quân thứ Bắc Ninh là Ông Ích Khiêm về kinh đợi án.
Bấy giờ Ích Khiêm đem quân đánh giặc ở An Định (thuộc Bắc Ninh), tự thu quân về. Tổng đốc Bắc Ninh Tôn Thất Thuyết cho là Ích khiêm đánh giặc [mà] thương tổn [:hao quân, tổn lính ta] nhiều, tự tiện đem quân về, không theo tướng lệnh, [nên] bắt xích giam ngay, tâu xin xử trí. Quan tỉnh Hải Dương Phạm Phú Thứ [lại] nghe người nói Ích Khiêm đánh thắng, đã trình, rồi [mới] về, [nên ông] xin phái quan to đến tra xét và xin điệu [Ích Khiêm] về Hải Dương để trấn áp [phỉ]. Vua sai giải giao [Ích Khiêm] cho tỉnh Đông [:Hải – Yên] phái đi làm việc. Tôn Thất Thuyết lại tâu: “Tỉnh Đông hiện có phái viên nước Pháp ở đấy bàn bạc [việc thương chính], [và] sự thể tỉnh Đông, tỉnh Bắc cùng quan trọng, mà Ích Khiêm thì tâm tình, ngôn ngữ không phải là người yên thường giữ phận, sợ đến dỗ dành người khác sinh sự, tưởng quan tổng đốc tỉnh Đông không áp chế được. Xin chuẩn cho đem Ích Khiêm về kinh xử trị, để khỏi trở ngại”.
Vua nghe theo, sai giải giao [Ích Khiêm] cho Hà Nội xét qua, giải thẳng về kinh chờ án. (Sau Ích Khiêm đến kinh, mắc bệnh tâm hoả [lo phiền], liền cho về quê)” (64)
.
Chả là Tôn Thất Thuyết mặc dù đang chất chứa trong tim mối căm thù giặc Pháp, mối căm thù sùng sục khôn nguôi, ông cũng đành phải lo âu về việc làm vỡ không khí nghị “hoà” bất đắc dĩ, chẳng đặng đừng ở Hải – Yên. Danh tướng Tôn Thất Thuyết ngại rằng, chính danh tướng Ông Ích Khiêm sẽ không kìm chế được lòng căm thù Pháp như mình, gây ra khích biến.
Ở kinh đô Huế, thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường không biết nói sao, khi Ông Ích Khiêm được giải vào, cơn bệnh tâm hoả ăm ắp lo phiền của ông ấy lại phát ra. Nguyễn Văn Tường không ngờ số phận thần đồng văn chương cũng là danh tướng quân sự của Ông Ích Khiêm lại bi kịch đến thế! Ông chỉ biết cùng triều đình miễn nghị, và tiễn Ông Ích Khiêm vào lại làng quê Phong Lệ, huyện Diên Phước ở đất Quảng Nam tả trực kì. Khi tiễn chân vị danh tướng họ Ông, thượng thư Nguyễn Văn Tường chỉ biết nói với con người bi kịch ấy: “Gắng chữa khỏi bệnh, rồi lại ra kinh đô, cùng nhau làm việc tại Bộ. Chẳng có gì phải nản chí”.
Chỉ mươi, mười lăm hôm sau, với chức năng quan Thương bạc, Nguyễn Văn Tường lại phải cùng Viện – Bạc hội bàn về chính mắc mứu giữa phái viên Pháp Dujardin với tổng đốc Bắc Ninh kiêm thống lĩnh quân vụ Ninh – Thái – Lạng – Bằng Tôn Thất Thuyết (65).
Bấy giờ, Pháp đang làm dinh thự Nha Thương chính ở xã Gia Viên, tỉnh Hải Dương, gồm trụ sở cho lãnh sự, quan thu thuế và bọn lính Pháp hộ tùng, cũng cho cả linh mục thông ngôn Nguyễn Hữu Cư, kẻ đang được giữ chức tham biện, một chức quan của triều đình (66). Bấy giờ, hai trăm (200) bản thương ước Giáp tuất đã được in ra phát hành cho các tỉnh, những người buôn Trung Hoa, để có cơ sở làm công tác thuế quan và thuận lợi trong việc thương mại (67). Và cũng bấy giờ, Nha Thương bạc của triều đình Huế đang được làm tạm bằng tranh tre ngoài Thành Nội, phía bên trái cửa Đông Nam (Thượng Tứ), nơi nhìn ra bờ sông Hương (68). Những tưởng những thù oán, hiềm khích trước khi kí kết “hoà” ước, thương ước đã dịu hẳn, nhưng thực tế không phải thế.
Tháng mười nguyệt lịch năm ngoái (1874), tướng Pháp tại Gia Định vẫn còn ra lệnh cho Dujardin cùng tàu Sắc Tê (La Sarthe? Le Salteé?) chở thức ăn đến cung cấp cho Jean Dupuis. Tất nhiên, có lẽ Tôn Thất Thuyết không thể làm ngơ. Ông phải chuẩn bị quân binh và không thể không nói cho chúng biết, không phải chúng muốn làm gì thì làm. Tướng Du (?)và những tên viễn chinh đi theo tàu ấy hiện vẫn đồn trú tại Hải Dương. Đến nay, tên tướng Du (?) này lại cùng Dujardin (La Đăng) đều gửi thư hoặc tỏ ý bằng lời, bảo rằng chúng rất nghi kị Tôn Thất Thuyết, một khi Tôn Thất Thuyết còn chỉ huy các quân thứ đóng ở Bắc Ninh. Chúng sợ sẽ bị Tôn Thất Thuyết bất ngờ tấn công. Do đó, mắc mứu ấy phải được giải minh cho rõ, mặc dù giải minh một cách ngoại giao! Quan Thương bạc đã phải trả lời cho Phủ suý Pháp tại Gia Định về mắc mứu, thực chất là cái gờm nhau ấy (68).
“Hoà” ước, thương ước ư? Thật ra Pháp vẫn giết hại những ai đã từng chống đánh chúng, nếu chúng có thể bắt được và giết được. Nguyễn Hữu Huân (69), một cử nhân thủ khoa người Định Tường, ra vùng tị địa ở Bình Thuận, trước đây mộ quân đánh Pháp. Pháp bắt dược, lưu đày ra nước ngoài (đảo Réunion), lại phóng thích cho về. Khi về lại Đất nước, thủ khoa Huân lại kết nghĩa đồng chí với cử nhân Âu Dương Lân (69), người đồng tỉnh Định Tường, cùng kẻ sĩ văn thân lục tỉnh Nam Kì, trong đó có một số người nước Thanh (Hoa kiều). Cả thảy khoảng ba ngàn (3.000) nghĩa sĩ (69). Nhiều cuộc tấn kích vào chính bọn Pháp đã được tiến hành, đạt nhiều thắng lợi. Những nghĩa sĩ ấy chiến đấu ngay cả trong những năm gần đây (1872 – 1874). Đến nay, trong những ngày tháng tư Ất hợi (1875) này, Pháp bắt được, đã tử hình hai ông cùng hơn trăm người thủ lĩnh nghĩa quân ở Mỹ Tho (Định Tường). Có người bảo Nguyễn Hữu Huân đã cắn lưỡi tử tiết trên pháp trường (70).
Quốc sử quán triều Nguyễn chỉ còn biết ghi tên hai ông với sự hi sinh của hơn một trăm liệt sĩ khác, cùng công trạng của ba ngàn nghĩa quân cho nghìn thu ca ngợi, tôn vinh! Lịch sử mãi mãi ca ngợi, tôn vinh ý chí chiến đấu chống ngoại xâm, cho dẫu chiến đấu trong tuyệt vọng.
Chính những trận tấn công như thế vào chính binh tướng Pháp viễn chinh, cố đạo Pháp viễn chinh, vốn đã làm bọn thực dân Pháp rúng động, sợ hãi, cũng là một cách chiến để đàm, mặc dù có thể không có một mật ước, mật dụ nào cho các anh hùng, nghĩa sĩ.

9

Những ngày hạ tuần tháng sáu, thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường, thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản được sung chức đọc quyển trong kì thi phúc hạch cử nhân trúng cách (thi hội và thi đình) (71). Đó là hai giám khảo chính. Ngoài ra, tả thị lang Bộ Lại Trần Văn Chuẩn, hồng lô tự khanh sung làm việc ở Nội các Bùi Ân Niên (Bùi Dị) được sung vào chức duyệt quyển (chấm lại những quyển bài thi đã được lấy đỗ) (71).
Trong bốn kì thi hội và một kì thi phúc hạch cuối cùng, gọi là thi đình, khoá Ất hợi này, có những đề thi rất sát với thời sự. Kì thi đình do chính vua Tự Đức sát hạch các sĩ tử, để chọn thám hoa, bảng nhãn (không có lệ lấy trạng nguyên!). Chính bài chế sách của nhà vua nổi tiếng uyên bác cổ văn là Tự Đức, cũng hướng tới việc canh tân Đất nước theo “Tây học vi dụng, Đông học vi thể” .
Thượng thư Nguyễn Văn Tường là người đã từ lâu đề xuất việc cải cách thuế ruộng ở Đàng Ngoài, nhất là ở Bắc Kì, trong các phiên họp Viện Cơ mật – Thương bạc. Những ý tưởng này hình thành từ những năm còn làm tri huyện, phủ doãn (72) và nhất là những năm tiễu phỉ ở phía bắc Đất nước. Việc thống nhất hai miền, Đàng Trong và Đàng Ngoài, về mặt hành chính, vốn đã được thực thi từ thời Quang Trung, và rõ rệt nhất là dưới thời Gia Long, rồi trải qua ba triều kế tục, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Tuy nhiên, thực trạng kinh tế (gồm cả tài chính) vẫn có những khác biệt lưu cữu. Đến năm Tự Đức thứ hai mươi tám, Ất hợi (1875), trước kiến nghị cải cách về thuế ruộng công, ruộng tư Nam – Bắc để thống nhất về thuế vụ trong cả nước nhà vua hơi dè dặt. Nội dung cốt lõi của cải cách này là, giảm thuế ruộng công, tăng thuế ruộng tư, nghĩa là nghiêng về phía ưu đãi cho người nghèo (tá điền, cố nông) thiếu ruộng công để cày cấy. Thực chất đó cũng là một cách ổn định tình hình chính trị – xã hội, cụ thể là giảm bớt bao nông nỗi đau lòng, như sự loạn lạc, xiêu tán của nông dân, do đói kém, thiếu ruộng để canh tác. Trước khi ban hành chủ trương ấy, trong kì thi hội, thi đình này, một đề thi đã được ra cho các cử nhân sắp sửa là phó bảng, tiến sĩ, như một cách thăm dò, tham khảo và cũng là cách tuyển chọn. Đó là đề thi kì thứ hai, cho những sĩ tử đã đỗ kì thi thứ nhất: “Nghĩ kim linh Bắc Kì quân điền phú chiếu” (nghĩ làm bài chiếu nay khiến Bắc Kì chia đều thuế ruộng) (73) .
Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng sau, chính Nguyễn Văn Tường đã được chuẩn cho để thực hiện chủ trương này, trên cương vị mới là thượng thư Bộ Hộ (74). Và suốt nhiều năm sau đó ông vẫn tiếp tục đấu tranh với các cường hào ác bá và các quan tỉnh để thực hiện.
Trong kì thi hội và thi đình này, ngoài ra, còn có những đề thi khác rất thời sự, cùng những đề về kiến thức và thái độ, nhân cách, đạo đức kẻ sĩ (73):
1. “Như hà tư khả vị sĩ hĩ” (thế nào gọi là kẻ sĩ).
2. “Lai bách công dã, nhu viễn nhân dã” (gọi trăm quan lại, ôn hoà với người phương xa [:người nước ngoài]).
3. “Tứ giao đa luỹ, thử khanh đại phu chi nhục dã, địa quảng đại hoang nhi bất trị, thử diệc sĩ chi nhục dã” (bốn cõi nhiều hào luỹ là nhục của các quan khanh và đại phu, đất rộng bỏ hoang nhiều mà không dùng cũng là nhục của kẻ sĩ vậy).
4. “Nghĩ giảng hoàn tứ tỉnh thần dân hạ biểu” (nghĩ làm bài biểu thần dân mừng về việc trả lại bốn tỉnh).
5. “Ngự nhung vô thượng sách” (bài luận về câu “chống giặc không có kế sách nào hay nhất”).
6. “Phú đắc bất tham vi bảo thi” (bài thơ theo câu “Giàu [?]lại được thêm mà không tham là báu”, lấy vần “tham”).
7. “Phú sứ lai triều tu hảo hợp lễ phú” (làm bài phú nói sứ thần nước Pháp đến triều để tu sửa sự giao hảo [:quan hệ ngoại giao tốt đẹp] cho hợp lễ [đạo thường]).

8. Trích chế sách kì thi đình của vua Tự Đức: “Vả sao gần đây càng suy tôn phương pháp của Phương Tây? Vậy phương pháp ấy có quả thấy xác thực hơn hẳn cổ nhân, hay cũng chỉ là một loại ồ ạt nói liều mà thôi? […].Thậm chí các việc dẫn điện, thu lôi, chế hơi để dùng, các sự quái dị ấy, cơ hồ đoạt được quyền tạo hoá, thì làm sao nà tiến được đến như thế? […]. Hoặc là muốn biến đổi tất cả văn hiến từ ngàn năm, mới có thể làm nên phú cường được? Có phải thế chăng? Tất là có thể thừa biện được? Hoặc là theo như nước Nhật Bản cấp thiết về công việc gần trước mắt mà bắt chước được không? Xưa kia có người biến đổi quần áo rợ Hồ [phía tây bắc Trung Hoa] mà được hưng thịnh, có người vất bỏ phong tục rợ Hồ mà bị suy vong. Hai đằng khác nhau. Vậy biết lấy gì làm chuẩn đích? Những điều này là trẫm đều muốn tìm hiểu và muốn được nghe biết vậy” (73) .
Hai giám khảo chính là Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tư Giản đã cẩn trọng, cân nhắc rất kĩ khi chấm các quyển bài thi, để chọn những người xứng đáng được chọn vào các thứ hạng trúng tuyển. Hai giám khảo khác, Trần Văn Chuẩn và Bùi Ân Niên, đã duyệt lại các quyển. Kết quả: mười một (11) tiến sĩ, đồng tiến sĩ xuất thân (có thứ bậc); sáu (06) phó bảng (71).
++ Tiến sĩ: Phạm Như Xương (Quảng Nam), Nguyễn Hữu Chính (Chánh, Nghệ An).
++ Đồng tiến sĩ: Đinh Nho Điển, Đinh Văn Chất (Nghệ An), Phan Du, Hoàng Hữu Thường, Tống Duy Tân (Thanh Hoá), Lê Duy Thụy, Vũ Hữu Lợi (Nam Định), Trần [Văn] Dư (Rư, Quảng Nam), Cao [Đăng] Đệ.
++ Phó bảng: Lê [Đăng] Trinh (Quảng Trị), Hồ Bá Ôn (Nghệ An), Đỗ Thiện Kế, Phạm Xuân, Đỗ Huy Điển, Tạ Thúc Đĩnh (71).
Phạm Như Xương, Nguyễn Hữu Chính, Đinh Nho Điển, Phan Du nguyên là hạng thứ trúng cách trong bốn kì thi, được gia ân cho vào thi đình. Nhưng ở kì thi đình, họ lại vượt lên, hầu như chiếm đầu bảng. Chen vào giữa hai đồng tiến sĩ dẫn dầu danh sách này chỉ có mỗi một Đinh Văn Chất.
Có một điều rất đáng lưu ý để suy nghĩ: trong mười bảy vị được trúng tuyển kì thi hội và thi đình này, về sau, có đến bảy vị là anh hùng, liệt sĩ (75).
Sau khi niêm yết bảng kết quả, đầu tháng sáu nguyệt lịch, thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường liền được đổi bổ làm thượng thư Bộ Hộ, vẫn sung đại thần Viện Cơ mật, kiêm quản lí công việc Nha Thương bạc (Nha Ngoại giao và Ngoại thương) (74). Thượng thư Bộ Hộ Trần Bình chuyển công tác sang Bộ Hình, kiêm quản cả Bộ Công giúp cho Phạm Ý (ông đang được phép về quê cư tang ba tháng) (74).
Đó là một sự sắp xếp lại nhân sự rất xứng hợp. Thượng thư Nguyễn Văn Tường rất vui mừng vì ông sẽ kiên quyết thực hiện cho bằng được kế sách mới về thuế ruộng đất Đàng Trong – Đàng Ngoài để thực sự thống nhất Đất nước về chiều sâu và thêm một bước lo toan cho nông dân nghèo khó, thiếu đất cày, bị địa chủ bóc lột, phải lưu ly xiêu tán.
Sau những công việc bình thường nhưng không phải không quan trọng ở những ngày tiếp theo, thượng thư Nguyễn Văn Tường lại quay trở lại với chủ trương ông rất tâm huyết từ lâu là cải cách thuế ruộng công, ruộng tư bằng nhau trên khắp Đàng Trong, Đàng Ngoài ấy. Trong khi chuẩn bị và chờ một thời điểm gần nhất để công bố văn bản, ông cùng các quan trong bộ mới nhậm chức, các quan Viện – Bạc và các quan ở Bộ Công bàn việc định lệ phái tàu thuyền đến các nước phương xa với mục đích mua bán, lấy thu bù chi, đồng thời chú ý thăm xét, tìm hiểu tình hình ở các nước đó, nhất là việc các nước Âu Mỹ (Phương Tây) đang hội họp với nhau (76) ở nhượng địa Hương Cảng… Đó là một việc thường xuyên trước đây, nhưng lâu nay tất cả sức lực đều chỉ giải quyết tình thế trong nước, nên bỏ bẵng. Một việc khác thuộc Bộ Hộ là bắt đầu thu lại thuế thiếc, một loại hàng hoá khoáng sản được khai thác từ các mỏ ở Vân Nam (Trung Quốc), trước đây thường xuôi thuyền về Hà Nội trên tuyến sông Hồng để lại chở sang Quảng Đông, với mức thuế thường niên lên đến bảy vạn ba ngàn (73.000) quan (77). Đó là tuyến đường vốn từ lâu đã có, gần đây Jean Dupuis cố khai thác và xem như một phát hiện mới! Và việc bình thường nhưng quan hệ đến mức sống nông dân là nạn sâu bọ ở Hải Dương. Phạm Phú Thứ tâu về Bộ Hộ, Bộ Hộ tâu lên vua, nhà vua quở trách các quan lớn nhỏ ở tỉnh ấy không tự chủ động giải quyết nổi nạn thường gặp ấy, với thói tật và ngôn từ quân phụ (vua cha) – thần tử (tôi con) rất hoàng đế của mình (78)! Một sự kiện khác, tuy nhỏ nhưng có tính chất chính trị – ngoại giao lớn, đó là việc khâm sứ Pháp đến Huế (79). Nhưng sự lệ đón tiếp đã có Bộ Lễ (79) của thượng thư Lê Bá Thận đảm trách.
Sau những vụ việc bình thường nhưng không thể xem là không quan trọng ấy, thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường được chuẩn y để công bố chủ trương cải cách thuế ruộng công, ruộng tư bằng nhau trên khắp Đàng Trong, Đàng Ngoài (80):
“Cho thuế ruộng công, tư, từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, chiểu theo thuế lệ từ Quảng Bình trở vào Nam, bắt đầu từ năm sau.
[Trước đây, từ] Quảng Bình trở vào Nam, ruộng công [, ruộng] tư mỗi mẫu hạng nhất: [lấy thuế là] bốn mươi (40) thưng thóc, hạng nhì: ba mươi (30) thưng, hạng ba: hai mươi (20) thưng. Mà [trong khi đó, từ] Hà Tĩnh trở ra Bắc, ruộng công hạng nhất: thóc thuế tám mươi (80) thưng, hạng nhì: năm mươi sáu (56) thưng, hạng ba: ba mươi ba (33) thưng, [và] ruộng tư hạng nhất: hai mươi sáu (26) thưng, hạng nhì hai mươi (20) thưng, hạng ba: mươi ba (13) thưng.
[Như vậy, qua sự so sánh, thấy rõ: thực trạng mức thuế ruộng công, ruộng tư chênh lệch nhau ở Đàng Ngoài, từ sông Gianh trở ra,] so với [mức thuế ruộng công, ruộng tư đều nhau ở Đàng Trong, từ sông Gianh] trở vào Nam [, thì ở Đàng Ngoài] ruộng công rất nặng [thuế], ruộng tư rất nhẹ [thuế]. [Do đó] cho nên [cần phải] cho đều nhau [về thuế]” (80)
.
Tất nhiên, kích thước để tính đơn vị đất ruộng cũng phải thống nhất (sào, mẫu đất ruộng Bắc Bộ đương nhiên phải không khác sào, mẫu Trung Bộ).
Đó chính là chủ trương cải cách thuế ruộng để thống nhất Đất nước về chiều sâu, ấy là về nền tảng cơ bản nhất của xã hội nước ta, một xã hội trọng nông, xưa đến bấy giờ đều khẳng định “nông vi bản”. Chính chủ trương được công bố trong những ngày đầu tháng bảy năm Ất hợi (1875) là một trong những đề thi hội vào cuối tháng sáu nguyệt lịch trước đó. Thăm dò ý kiến sĩ tử ưu tú nhất, thấy họ đều biểu đồng tình với cách luận giải riêng rẽ nhưng đều vẫn chung nhất, ngay lập tức thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường được chuẩn cho chuyển đổi sang làm thượng thư Bộ Hộ, để thực hiện một chủ trương ông từng ấp ủ nhiều năm.
Và từ khi chủ trương này được thực thi, trong một vài vụ mùa sau, người ta nghe trên những cánh đồng, dưới bao mái nhà nông thôn vang lên tiếng hát ca dao, chê trách một cách sắc ngọt những “bà” địa chủ, những “ông” phú nông bóp nặn bao tá điền, bao nông dân không còn một tấc đất cắm dùi:

“Từ nay tôi cạch đến già
Tôi không dám cấy ruộng bà nữa đâu
Ruộng bà vừa xấu vừa sâu
Vừa bé hạt thóc vừa lâu đồng tiền
Tôi về cấy ruộng công điền
Hạt thóc đã lớn, quan tiền trao tay”.


Nhưng rất tiếc, mặc dù không phải không đúng, khi xảy ra việc người bạn đồng triều của thượng thư Nguyễn Văn Tường cũng là giám khảo của cuộc thi hội, thi đình lần này lại gặp phải một sự cố, đành phải lạc chức. Nguyễn Tư Giản, đang là thượng thư Bộ Lại, bị biện lí Tôn Thất Phan tâu hặc (81): Chính quan Bộ Lại Nguyễn Tư Giản đã kí tên vào tờ đơn đóng ấn giả mạo, nộp ở Bộ Lại, cùng với chữ kí tham tri Nguyễn Văn Thuý, thị lang Nguyễn Mậu Đạo! Tờ đơn ấy lại là của tên xảo trá Phan Văn Nhã, một học trò của Nguyễn Tư Giản! Ti Tam pháp cùng Nội các xét xử. Cả ba viên quan cùng Bộ đều bị giáng, cách. Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản bị vua Tự Đức phê phán: “Tư Giản thiên tư [:thiên vị], dong túng, rất phụ lòng tin yêu của trẫm, phải cách chức ngay, chuẩn cho đến miền núi mộ dân khẩn hoang, làm việc chuộc tội” (81) . Thượng thư Bộ Lễ Lê Bá Thận được phân công kiêm quản chức trách Nguyễn Tư Giản mới rơi khỏi (81). Đó là một vụ việc rất đáng tiếc nhưng không phải không đúng! Biết làm thế nào được! Phải “thượng tôn luật pháp”.
Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường đành tiễn chân Nguyễn Tư Giản ra Sơn phòng Chương Đức (huyện Ứng Hoà, huyện Mỹ Đức) thuộc tỉnh Hà Nội (82), với lời hi vọng vào một ngày sớm nhất ông ấy lại về triều, để tiếp tục ủng hộ Nguyễn Văn Tường trong việc thực hiện chủ trương rất tâm huyết, ấy là cải cách thuế đất ruộng: thuế ruộng công bằng thuế ruộng tư, trên khắp Đàng Trong, Đàng Ngoài.

10

Nha Thương bạc nhận được liên tiếp hai văn thư của Phủ suý Pháp tại Gia Định do tên tướng Duperré viết và kí tên, đóng dấu. Một văn thư về việc hỗ giao thương ước Giáp tuất (83). Một văn thư khác, với nội dung phê phán tổng lí thương chính đại thần Phạm Phú Thứ: “Viên ấy không có lòng tốt” (84) ! Việc tiến hành lễ hỗ giao thương ước, vào giữa tháng bảy nguyệt lịch, năm Ất hợi (26.8.1875), được tiến hành rất giản dị tại dinh Nha Thương bạc. Như vậy cũng tiện cho Pháp và cả cho nước ta. Đầu tháng tám, Phạm Phú Thứ lại dâng sớ xin từ chức, về triều! Hoá ra, Duperré cũng đã trực tiếp gửi bản văn thư ra Hải Dương cho ông! Vua Tự Đức ra dụ, bảo Phạm Phú Thứ phải cố lưu lại, hết sức nỗ lực giao hảo và làm việc cho xứng đáng với chức trách giao phó (84).
Mặc dù đã hỗ giao “hoà” ước lẫn thương ước Giáp tuất, Pháp vẫn muốn lấn ép triều đình nước ta trong việc bố trí quan chức cấp cao để chúng có thể thao túng về thương chính. Đối với thượng thư Nguyễn Văn Tường, chúng càng quyết dùng thủ đoạn để triệt hạ ông. Không những Nguyễn Văn Tường, Phạm Phú Thứ mà một vài viên quan đầu tỉnh khác cũng thế, như tuần vũ Thuận – Khánh Lê Đình Tuấn, chẳng hạn. Bọn Phủ suý Pháp cho rằng Lê Đình Tuấn và điển nông sứ Phan Trung, qua một người Hoa là Trần Khai Kim, vẫn còn ngầm hỗ trợ quân khởi nghĩa của Thủ khoa Huân (văn thân lục tỉnh vốn liên kết với nhóm “người Thanh tóc dài” ) ở Nam Kì (85).
Rõ ràng tâm địa của bọn Pháp là không bao giờ có thiện chí. Và triều đình cùng các quan ta cũng không bao giờ nguôi quên kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm là Pháp, trong đó “tả đạo” Pháp là một lực lượng của chúng. Điều đó không một ai ngây thơ để không biết. Ngay cả vua Tự Đức, một người cơ hồ như luôn nuôi ảo tưởng về thiện chí của Pháp trong một số sắc dụ, cũng không phải không nhận ra, có điều nhà vua không tiện nói thẳng, ngại chính mình cũng “thiếu tình hữu hảo (!)”, gây khích biến với Pháp.
Tình hình như thế, không thể khác hơn, nên triều đình và các quan phải “hai mặt” (bề ngoài vẫn làm ra vẻ “hữu nghị”, bên trong phải luôn chống cự thủ đoạn xâm lược “tàm thực”, tằm ăm lá dâu của Pháp) để đối phó với chúng. Từ tình hình đó, vua Tự Đức cho rằng từ nay, phải chú trọng việc tối cẩn mật (86): Những tờ mật tâu của các quan, kể cả đình thần, đều phải do Viện Cơ mật lưu trữ bản gốc, sau khi Viện đã lược ghi một cách tóm tắt vào phiếu tâu. Ngay cả đình thần hoặc Nội các khi gặp việc đúng chức năng, cần xét nghĩ, làm phiếu tâu, cũng phải đến tại Viện Cơ mật để nghiên cứu tại chỗ. Lệ này được định lại khác với trước. Trước đây, những tập tâu mật rất quan trọng này, có khi chỉ được lược ghi, xét nghĩ và lưu trữ bởi Nội các, không nhất định gì cả. Phải định lại lệ bảo mật như vậy (86).
Có lẽ hai tập sớ, tấu của Nguyễn Chính và Trương Quang Đản là đầu tiên theo lệ mới định lại. Tập sớ của tổng đốc An – Tĩnh Nguyễn Chính trình bày về số lượng nhà dân trong cuộc nội chiến lương – giáo Giáp tuất 1874 bị thiêu sát (đốt, giết) là khủng khiếp: chín ngàn lẻ năm mươi (9.050) hộ; các hộ dân ấy xin chiểu lệ hoả hoạn cứu giúp, miễn thuế, cho khỏi trả thóc vay (87)… Tập tâu của Trương Quang Đản về việc tổ chức lại, tăng cường thêm về hệ thống sơn phòng khắp nước “tuy nói rằng để vững bờ cõi ta, thực để phòng bị mối lo không ngờ” (88) , đó là sự tấn công của Pháp.
Và như thế, đâu phải “hoà” là để thúc thủ, đầu hàng từng bước. “Hoà” là để thủ, thủ là phải chấn chỉnh binh lực, cải cách nội trị, và để canh tân công nghệ. Tuy nhiên, cả đình thần không ai không biết về thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành, đến lúc này, ông ta lại trễ nãi việc luyện binh (89). Vua Tự Đức trách Bộ Binh của ông ta:
“Hiện nay việc binh là rất trọng yếu, mà súng ống lại là đồ dùng cho việc binh trước nhất. Nên trước hết phải luyện tập cho đều tinh thạo, khi cần đến mới mong được việc. Nếu có sai phái [đi đến các nơi], cũng liệu để lại [để] học tập, đâu có thể uỷ cho việc nhiều mà bổ [đi], không luyện tập được” (89) .
Trong tình hình cuộc chiến ngoại giao, thương mại đã bước đầu khởi sự, thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường phải tâu xin định lại thật chặt chẽ điều lệ biên thu thuế quan (90) trên mặt trận thương chính, đồng thời chuẩn bị công bố vào tháng chín sắp tới về định lệ tâu báo theo kì hạn nhất định cho Nha Thương chính (90):
“Mỗi tháng thuyền hạng nào xuất nhập bao nhiêu, thu thuế bao nhiêu, đến cuối tháng làm bản tư về Bộ [Hộ, để Bộ Hộ] trình lên [nhà vua] xem. Cả năm làm bản tâu một lần. Còn tình trạng đình hay báo, kiểm thu, phát mại, khó hay dễ, thường hay phức tạp, [phải] xét cho thực, không ẩn giấu. Từ sau, Hà Nội, Bình Định [nơi có cửa biển Thi Nại] cũng theo thế” (90) .
Đó cũng là cách để nắm chắc tình hình ở các sở thương chính, nơi cả bọn Pháp lẫn quan ta cùng đối tác, làm việc theo theo thương ước Giáp tuất 1874.
Và để khích lệ việc canh tân, thành lập các cơ xưởng, tăng gia sản xuất các mặt hàng dệt, nhuộm như nhung vải ở Hà Nội, các mặt hàng cơ khí như xe, thuyền, đồng hồ, các sản phẩm công cụ cho nghề nghiệp (cày, khung dệt…), cả súng ống và các loại khí giới khác ở các tỉnh trong nước, Bộ Hộ của thượng thư Nguyễn Văn Tường đã tâu bày để có những lệ định được chuẩn và có các sắc dụ ban ra:
“… Khuyên bảo dân xã Sam Cầu, người nào tinh xảo thì tạm cấp cho tòng cửu phẩm, hộ trưởng thì mộ dân lập hộ. Trong một năm dệt được tốt đẹp, hộ trưởng được thưởng thụ tòng cửu phẩm, hộ phu được miễn binh đao, thuế thân. Cả năm mỗi tên nộp thay [thuế] bốn (04) thước [ta] nhung sợi” (91).
“Lập xưởng thợ làm thành đồ, là để có lợi cho cả nước. Nước ta đồ dùng đều có thể làm được, nếu biết hết lòng tìm tòi, nhân xấu đến tốt, thì lo gì nghề nghiệp không mở rộng mà cam chịu kém người… Phàm việc gì ích quốc lợi dân thì khuyên bảo sĩ dân trong hạt hết lòng suy nghĩ, không chỉ các nghề dệt nhuộm, nung đúc mà thôi. Phàm máy móc như xe, thuyền, súng, khí giới, đồng hồ, cho đến các đồ dùng về cày, dệt, có thể bớt được sức người mà dùng được tiện lợi, thì hết thảy phải khuyên bảo người khéo. Có người có tài năng thì đều đem tâu lên, không cứ hạng người nào. Nếu muốn thân hiển vinh để tiếng về sau, tính nghề gì thạo có thể giúp ích cho thực dụng, đều cho không ẩn giấu; đợi lại xét thực thêm, tuỳ được ích lợi nhiều hay ít, [triều đình sẽ] liệu thưởng cho chức quan, để biết được khuyến khích…” (91).
“… Từ sau, phàm các tỉnh có tỉnh liên quan đến việc buôn [:thương mại] và các việc giao thiệp [:ngoại giao] mà là khẩn cấp, thì trừ việc rất trọng đại quan ngại, tâu ngay đợi chỉ ra, còn thì chuẩn cho được cùng lòng dựng nước, châm chước tuỳ theo tình thế, đều chiểu theo ước cũ trước, tuân theo ý chỉ, làm cho thoả đáng, cốt phải trong yên, ngoài tin, rất có lợi ích. Một mặt làm ngay cho kịp việc, một mặt tâu gấp để biết…” (92)
.
Trong các lĩnh vực quốc kế dân sinh thuộc Bộ Hộ và ngoại giao thuộc Nha Thương bạc, rõ ràng thượng thư Nguyễn Văn Tường đã tham mưu, tư vấn cho nhà vua, người ở địa vị tập quyền cao nhất, bằng những phiếu tâu trên cơ sở những tấu, sớ các địa phương gửi về với những kiến giải, đề xuất của bản thân. Tất cả đều được bàn luận ở Viện – Bạc và ở những buổi thiết triều bàn việc nước, trước khi trở thành định lệ và sắc dụ.
Có những điều rất mới mẻ so với trước. Đó là ý thức tự hào không chịu thua kém nước người trong sản xuất. Đó là quan niệm cũng là hướng mở trong việc lập thân (lập đức, lập công, lập ngôn) bằng các nghề thực nghiệp chứ không chỉ tu hành đắc đạo, làm việc thiện tận tâm, tận lực, thành công hiển hách trong chiến trận hoặc trên chính trường, hoặc ở sự nghiệp văn sử từ chương. Quan niệm về con đường tiến thân của kẻ sĩ, nhân dân không chỉ là khoa cử độc đạo.
Có một điều là triều đình vẫn duy trì “hoà” ước Nhâm tuất 1862, nếu các quan tự chủ động giải quyết, ứng xử trước tình huống cấp thời, nhưng không quan trọng, khi chưa kịp tâu báo và chưa có sắc dụ chỉ đạo cụ thể.
Nhìn chung là tình hình ít lâu sau khi “hoà” ước, thương ước đã được hỗ giao với sự phê chuẩn của hoàng đế Đại Nam và tổng thống toàn quốc Cộng hoà Pháp là thế. Đó là sự lấn ép của Pháp qua việc chúng yêu sách thay đổi quan chức. Đó là việc triều đình mở rộng quy mô sơn phòng trên toàn quốc (trong sự trễ nãi của Trần Tiễn Thành). Đó là việc triển khai đối sách trong cuộc chiến không tiếng súng, về ngoại thương và ngoại giao. Cuộc chiến ngoại thương và ngoại giao? Hình thái ấy là một loại hình chiến tranh chưa từng có trước đó. Không phải cường điệu mà đấy là sự thực.
Nhưng lại nổi bật lên là nguồn tin về tên giặc Cờ vàng Hoàng [Sùng] Anh đã bị bắt sống bởi quan quân quân thứ Tuyên Quang, với sự hỗ trợ của quân nhà Thanh do Triệu Ốc chỉ huy (93). Hoàng Anh là một trong vài tên tướng giặc Cờ gian giảo và hung ác nhất. Y liền bị xử lăng trì bêu đầu, đóng hòm thủ cấp chuyển giao đến các tỉnh (93). Tuy vậy, tình hình phỉ ở biên giới bắc vẫn chưa phải đã thanh toán hết!

Hết tệp 11
(phân đoạn 3 truyện kí thứ 8)

Khởi viết truyện kí thứ tám này
vào lúc khoảng 07 giờ sáng,
ngày 17.11.2002 (13.10 Nh. ngọ, HB.2).
Viết đến dòng chữ cuối của truyện kí thứ 8 lúc 16 giờ kém 10 phút,
ngày 30.11.2002 (24.10 Nh. ngọ, HB.2).
Sữa chữa xong vào lúc 15 giờ 24 phút,
ngày 04.12.2002 (01.11 Nh. ngọ, HB.2).


TRẦN XUÂN AN



(60) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 60.

(61) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 61.

(62) Nhiều tác giả, Từ điển văn học (TĐVH.), tập 2, Nxb. KHXH., 1984, tr. 49: quê quán Nguyễn Bỉnh Khiêm là làng Trung Am, Vĩnh Lại, Hải Dương (nay là Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Theo chúng tôi, không ai khác, chính Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đầu tiên có ý tưởng chia cắt Đất nước ra làm ba: Cao Bằng thuộc hậu duệ nhà Mạc, Đàng Ngoài thuộc vua Lê chúa Trịnh, Đàng Trong thuộc chúa Nguyễn. Xin khẳng định như thế, nếu giai thoại về “sấm kí Trạng Trình” là đúng với sự thật đã xảy ra trong cuộc đời Trạng Trình. Hoặc, gạt đi những huyền thoại thêu dệt, thì sấm kí tiên tri Trạng Trình không thể giải thích cách nào khác, nếu không xem đó là nhận thức chính trị có tính dự kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, trên cơ sở tình huống hiện thực lịch sử khách quan, và ông cũng phát biểu một cách khách quan, không có ý tưởng khuyến khích việc chia cắt Đất nước, khởi đầu của bi kịch Sông Gianh và hậu quả thảm khốc trong thời Tự Đức…

(63) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 196, 198 – 199.

(64) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 198.

(65) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 208.

(66) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 202.

(67) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 207.

(68) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 208.

(69) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 203.

(70) Nguyễn Bá Thế và Nguyễn Q. Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (TĐNVLSVN.), bản in lần thứ 5, Nxb. Văn Hoá – Thông Tin, 1999, tr. 13, 551 – 552.

(71) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 208 – 209.

(72) ĐNTL.CB., tập 30, sđd., 1974, tr. 186 – 188.

(73) Tự Đức, Tự Đức thánh chế văn tam tập, tái bản với tên sách: Thơ văn Tự Đức (TVTĐ.), tập 2, Nxb. Thuận Hoá, 1996, tr. 372 – 380.

(74) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 221.

(75) Những chữ ghi tên họ in nghiêng có gạch dưới, hoặc in đậm. Phạm Như Xương có tham gia khởi nghĩa Cần Vương (1885) và không được tin dùng dưới ngụy triều Đồng Khánh (ngụy vương đầu tiên của triều Nguyễn, do Pháp dựng lên).

(76) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 213.

(77) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 217.

(78) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 218.

(79) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 214.

(80) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 220.

(81) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 220 – 221.

(82) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 2, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 251.

(83) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 222.

(84) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 224.

(85) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 236 – 237.

(86) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 222 – 223.

(87) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 222.

(88) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 226 – 227.

(89) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 224.

(90) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 223 – 224.

(91) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 230 – 231.

(92) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 231.

(93) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 225 – 226.


Soạn xong phần chú thích
vào lúc 19 giờ 24 phút,
ngày 06.12. 2002 (03.11 Nh. ngọ HB.2).


TRẦN XUÂN AN


HẾT TỆP 11
(PHÂN ĐOẠN 3 TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Xin xem tiếp TỆP 12
(phân đoạn 4 truyện kí thứ 8)
thuộc tập II bộ sách “PCĐT. NVT.”

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập II B 10)

Tệp 10 - Tập II Blog B
(PHÂN ĐOẠN 2, TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Sẽ đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 12-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm


TRẦN XUÂN AN

CUỘC CHIẾN NGOẠI GIAO
VÀ NGOẠI THƯƠNG


Truyện kí thứ tám
(phân đoạn 2)

4

Thơ BÁ TƯỚC KÌ VĨ NGUYỄN VĂN TƯỜNG

Nguyên đán tảo cứ Quảng Yên tuần phủ Hồ Trọng Liễn mã đệ triệp tự quan binh đạp bình Phù Long phỉ sào, nhân chí kì sự

1. Ngã hoàng phủ thử chước khoan nghiêm
Thiên đạo âm dương hỗ hiển tiềm
Hàn uy phủ khước đông tiền lạp
Xuân dương dĩ phổ đồng nhân chiêm

5. Lí đoan vạn tượng chính tân sảng
Si mị tận tiêu thiên nhật lãng
Đình liệt bái khánh sâm y quan
Thúc văn tiệp tấu bình tặc đảng

Tu lai mã đệ Quảng Yên đồng
10. Hỉ kiến biên thần tự chiến công
Ngưỡng duy miếu đường thụ thành toán
Kháp trị thái vận phương hưởng thông

Ngã quốc hải đông dữ Thanh tiếp
Nhất đới cát đồ liên u chung
15. Thanh lại kế cùng lân vi hác
Trì ngư vô đoan tao bỉ hung

Thanh tướng lưỡng lâm vô thốn hiệu
Đạn nan chung thị di khấu sao
Kình nguyệt thố quật một gian xuất
20. Niên lai biên manh khổ náo sao

Thuấn đức đản phu giác giã mê
Tự tây tự đông ngật (cật) thanh giáo
Tranh nại động đình chướng kí thâm
Nan cách nhĩ tâm dịch nhĩ mạo

25. Chu sư ninh hoãn tiêm cừ khôi
Phù Long nhất cổ thiên hiểm thôi
Tướng biền dụng mệnh vô kiên địch
Thanh linh hách trạc võ công khôi

Kỉ công hựu thích hành khánh điển
30. Phàm bách nhung thần thị chi miễn
Thùy vị ba đào bất khả khai
Vạn lí trùng dương tương tận quyển

Vãng phục hóa cơ thuấn tức chuyển
Tương cơ yếu tại lượng thâm thiển
35. Tự cương duy thánh thể càn nguyên
36. Ngu thần thiết nguyện sách nô khiển
(trại).


Tự Đức nhị thập bát niên,
chính nguyệt, nhị thập nhật,
thần Nguyễn, phụng ứng chế.

Sáng sớm đầu năm,
theo tuần phủ Quảng Yên Hồ Trọng Liễn (Đĩnh) qua các tập tấu sớ đệ trình bằng ngựa về việc quân binh dẹp yên ổ phỉ tại Phù Long, nhân đó ghi chép lại việc ấy

1. Vua vỗ yên giặc, khoan và nghiêm
Đạo trời âm dương, kín và rõ
Trước chạp, oai lạnh đã xua đông
Ánh xuân vốn rộng, dân ngẩng trông

5. Sửa trị vạn điều, đúng, mới, sáng
Ma quỷ hết sạch, ánh trời tươi
Lệ triều lạy mừng, nghiêm áo mão
Chợt nghe tin thắng, giặc vỡ rồi!

Bỗng ngựa dâng ống, tấu Quảng Yên
10. Vui thấy chiến công quân vùng biên
Ngẩng suy, Triều đình trao kế dẹp
Vừa gặp vận tốt, vinh nối liền

Nước ta biển đông kề biển bạn
Chung ngọn cỏ bùn tiếng chuông chung
15. Thanh cạn, láng giềng thành hang hốc
Cá ao vô cớ gặp ác ngông!

Tướng Thanh hai lần không chút thắng
Ngại khó, rốt cùng sót giặc cắn
Hang kình lỗ thỏ cướp phục hầm
20. Năm trước, dân ải qua, gào đắng!

Đức Thuấn lắm lừa?! Mê là tỉnh!
Vắng tiếng dạy khuyên, đông sang tây
Sao tranh sân, rào? Đành khắc đậm!
Khó đổi dạ mày, khuôn mặt mày!

25. Quân ta hoãn diệt đầu mục sao?
Tiếng trống Phù Long muôn hiểm: Nhào!
Tướng võ tuân lệnh, hết giặc mãnh
Oai giọng, rửa hờn, lừng công cao

Ghi công đúng dịp mừng khánh lễ
30. Trăm quan được rõ, thêm mạnh kế
Ai bảo sóng to không thể êm?
Bể vạn dặm cuốn cùng sạch bể!

Qua – lại, máy huyền, chuyển chớp mắt
Thế cơ, lẽ trọng ở nông sâu
35. Nghĩ trong giới hạn: Càn – thánh thể
36. Tôi mong quất tôi, ngựa đua lâu.


Ngày 12 tháng giêng năm Tự Đức thứ 28 (1875),
thần: Nguyễn, kính cẩn đáp lại bài thơ của nhà vua (34).

Hạnh Thúy Vân sơn

1. Thúy Vân hà xứ thị
Đột ngột quần phong tiền
Quần phong nhất tề hạ
Độ thủy độc hoành phiên
5. Hành cung bàng kì trắc
Linh tích trĩ kì điên
Đôi nhiên ngọa thạch lão
Sâm nhiên cổ (a) mộc tiên
Lục âm vô hạ thử
10. Thúy sắc hữu xuân yên
Điểu ngữ thần chung minh
Tịch dương mê (mi) lộc miên
Hoàn liệt mạc phỉ sơn
Thúy Vân hà kì nhiên
15. Thẩn hữu thần thao chu
Nhất hoằng thanh thả nghiên
Thừa hứng phục đăng lâu
Nhất đới lạc bình điền
Mỹ tai danh thắng địa!
20. Thần du lịch hữu niên
Ngự kiều liễn lộ xứ
Cửu dĩ tĩnh trần quyên
Phùng kim hạ ngũ nguyệt
Tích (b) dư nguyệt phục viên
25. Thiên tử mệnh duyệt vũ
Chu sư hàm tỉ kiên
Triêu phát Hương Giang tân
Tiền hậu như thiền liên
Vãn khai Thuận Trực áp (sạp)
30. Thiều thiều vân thủy thiên
Vạn trạo phù trung lưu
Quân khí mộ ích kiên
Chu khinh phong tự sinh
Phong vi thủy tự liên
35. Thúy Vân tiệm giác cận
Ngật lập như trữ diên
Đăng hoa thủy tạ mãn
Nhiêu (nghiêu) tử nghỉ lâu thuyền
Tiên trượng quang như họa
40. Bồng đảo bất tiêu thiền.


(a) Phụng châu điểm.
(b) Phụng châu điểm.

Nhà vua đi thăm núi Thúy Vân

1. Nơi đâu là Thúy Vân
Riêng vút giữa dãy trước
Dãy núi, thấp một lần
Vượt nước, một núi văn
5. Cạnh hành cung, chênh chếch
Dấu đỉnh lẻ, linh san!
Đá xưa chồng, nằm vững
Cây cổ (a) rậm đẹp ngàn
Bóng xanh không nắng hạ
10. Sắc biếc ngút khói xuân
Lời chim, chuông sớm vang
Nắng chiều, hươu nai ngủ
Không phỉ núi, quân giăng
Thúy Vân! Thúy Vân!
– mây biếc – sao biếc thế!
15. Thuyền thao luyện có tâm
Nước sâu, trong một vẻ
Lên lầu, hứng càng nhân
Một dải rơi: ruộng bằng!
Đẹp quá nơi danh thắng!
20. Năm nay vua hoài thăm
Đường vua, cầu vua sang
Đã lâu sạch bụi lá
Gặp nay tháng năm hạ
Dấu xưa (b) lại tròn trăng
25. Lệnh duyệt quân, vua ban
Sánh vai, thế lính vững
Sớm, từ bờ Hương Giang
Đàn ve: tiền, hậu quân!
Chiều, mở đập Thuận Trực
30. Trời, mây, nước mênh mang
Vạn chèo trên dòng lướt
Hùng khí chiều hiên ngang
Gió tự sinh, thuyền vút
Gió khẽ, sóng tự lan
35. Dần đến gần Thúy Vân
Núi đứng nghiêm đợi đón
Thủy tạ đèn hoa giăng
Ghe tiều ghé thuyền tầng
Như tranh, gươm bụt múa
40. Đảo Bồng: thiền không tan! (35)


5

Trước khi duyệt binh, quan Bộ Binh Trần Tiễn Thành đã khỏi hẳn bệnh lị hay cũng thuyên giảm nhiều. Trong ngày đầu năm mới, ông cũng đến chúc tụng vua và đọc thơ ngự chế (36). Sau đó, hai lần ông ta bái tạ khiến vua Tự Đức rất áy náy (37). Trần Tiễn Thành vẫn là vị quan, lạ lùng thay, lại được nhà vua sủng ái nhất!
May thay, những ngày Tết Nguyên đán với tin chiến thắng (38) và tiếp đến là sự chuẩn bị cho cuộc duyệt binh lớn (39) sẽ rất hào tráng đã lấy lại sự phấn chấn cho kinh đô Huế.
Giữa tháng giêng Ất hợi (1875), thượng thư Nguyễn Văn Tường, thượng thư Nguyễn Tư Giản đều hơi thất vọng khi biết linh mục Nguyễn Hoằng vẫn không dịch được những từ ngữ khoa học – công nghệ từ tiếng Pháp, các tiếng Âu Mỹ khác, và cả giám mục Đăng (Dangelzer) cũng thế (40). Quả thật, đây là một khó khăn có thật trong tình hình chung của sĩ phu vốn rất khinh bỉ lẫn ác cảm với ngôn ngữ Tây phương! Đến lúc cần mở rộng tầm nhìn và cần phải học tập Tây học, lại vấp phải hàng rào, chướng ngại vật là ngôn ngữ Tây, nên có những lúng túng, thiếu chủ động.
Cũng khoảng giữa tháng giêng Nam lịch, Ông Ích Khiêm mới ra kinh đô lãnh lại chức trách cũ. Ông vẫn được giữ chức tán tương quân thứ ở Bắc Kì. Đến nay, Ông Ích Khiêm đã khoẻ hẳn, căn bệnh tâm hoả, hay còn gọi là bệnh lo phiền, đã thật sự khỏi. Vua “lại thấy Ích Khiêm vốn hăng hái mà vô lễ, nhân đấy răn rằng: “Người ta có lễ thì yên tâm chăm đọc thi thư, mới làm [được] nho tướng”” (41) . Giọng điệu hoàng đế đối với bầy tôi bao giờ cũng thế!
Trong những ngày Ông Ích Khiêm đợi chỉ dụ, chưa ra Bắc, các đại thần, đặc biệt là thượng thư Nguyễn Văn Tường, có nhiều lần gặp gỡ thân mật, chuyện trò hỏi han Ông Ích Khiêm, một thần đồng đã đỗ cử nhân từ năm mười lăm tuổi, được vua Thiệu Trị vời vào đại nội, ban thưởng, thử lại sức học và tài làm thơ (42). Ông Ích Khiêm là một danh tướng không kém thua Tôn Thất Thuyết. Trong các lần ấy, Nguyễn Văn Tường thường cùng Ông Ích Khiêm ôn lại những năm tháng cùng quân thứ, có nhiều trận sát cánh cùng nhau tiễu phỉ.
Ở Viện Cơ mật – Thương bạc, thượng thư Nguyễn Văn Tường còn có đủ những tin tức trên cả nước và cố nhiên, không thể thiếu tin tức về Bắc Kì, việc thương chính cũng như quân thứ. Ông chỉ hơi ngại Ông Ích Khiêm và Tôn Thất Thuyết sẽ khắc tính nhau, vì cả hai danh tướng này đều rất giỏi về thao lược, không ai chịu bị ai chỉ huy! Nhưng dẫu sao, Ông Ích Khiêm đã có bên cạnh là tổng lí đại thần Phạm Phú Thứ, án sát Ma Xuân Vinh. Đang suy nghĩ về Tôn Thất Thuyết, thượng thư Nguyễn Văn Tường liền nhận được lệnh dụ của vua Tự Đức cho Nguyễn Uy (Oai) giải chức (43) vì toán giặc ở Bắc Ninh chưa dẹp nổi, hai đoàn giặc Cờ đã quy thuận của hai tên họ Chu, họ Triệu lại làm phản (43). Đó là quyết định của vua sau khi Viện – Bạc và Bộ Binh tâu trình về tình hình trong tháng trước. Đồng thời Vua Tự Đức cũng đã quyết định đổi bổ tham tán Tôn Thất Thuyết làm tuần phủ, hộ lí tổng đốc Ninh – Thái, kiêm tổng đốc các việc quân bốn tỉnh [Bắc] Ninh – Thái [Nguyên] – Lạng [Sơn] – [Cao] Bằng (43). Chức trách của Tôn Thất Thuyết rất lớn và quyền hạn rất rộng, cả về dân chính cũng như về quân thứ. Vua lại cho Bắc Ninh đang phải việc khẩn cấp, nên đặt thêm tuần phủ Bắc Ninh, và bổ Phạm Thận Duật thăng thụ chức ấy (43). Không lâu sau, tham tán thuộc tôn thất lại tâu vào một cách khiêm tốn: “Học thức ít, bệnh tật nhiều, xin vẫn theo chức cũ” (43) . Vua liền liền tham khảo ý kiến Viện – Bạc, và ban dụ: “Trẫm đã xét rõ cả rồi, tất phải quân thứ và tỉnh hợp nhất, việc và quyền mới chuyên. Ở Sơn Tây [Hoàng Tá Viêm] cũng thế. Huống chi lại đặt thêm tuần phủ [Phạm Thận Duật], đủ để làm được việc […]. Ngươi nên cố gắng, nghĩa không nên từ. Chớ để trẫm lo nhục” (43) .
Ở Bắc Kì còn có vụ tiến sĩ Phạm Văn Nghị, một kẻ sĩ yêu nước, rất căm thù giặc Pháp, nay bị bọn Pháp làm sức ép, nên phải đi ở ẩn. Vì tuổi Phạm Văn Nghị cũng đã già, vua Tự Đức đành biếu tặng ông một trăm lạng bạc, không nỡ trách cứ việc ông đánh Pháp thất trận ở đồn Độc Bộ (Nam Định) (44).
Tháng hai nguyệt lịch, lại xảy ra một việc rất trầm trọng vì phát hiện được một trường hợp không ngờ. Đó là vụ Vũ Duy Trinh (45). Giám sát ngự sử Chu Duy Tĩnh (thân sinh của Chu Mạnh Trinh (46)) tâu hặc y nguyên là một thống lãnh ngụy, đã ra đầu thú, lại được lục dụng làm bang biện ở Hải Dương, dần dà y thăng đến chức viên ngoại lang Bộ Công. Có điều “xem ngôn ngữ cử chỉ hắn không giống sĩ phu, huống chi lại nịnh nọt, đưa đón, tài giỏi của kẻ tiểu nhân, quân thứ tạm cho chức tán tương, Bộ Lại dâng tờ tâu cho dự hàng án sát!… [Hắn] đã bị nguyên thống đốc Lê Bá Thận nêu hặc. Vua chuẩn giao cho Bộ Binh xét lại. Bộ Binh vẫn để trì trệ. Bộ Lại làm tờ tâu chỉ trình bày là sĩ nhân ở Hải Dương, giấu việc theo giặc” (45) . Và vì vậy, y bị tước hàm chờ xét; hai bộ Lại và Binh (Nguyễn Tư Giản và Trần Tiễn Thành) bị giao cho Nội các xét xử (45). Đình nghị: Vũ Duy Trinh phải bị cách chức, cho y đi làm việc chuộc tội ở sơn phòng Quảng Nam. Cuối cùng, y bị xử chém vì đã bị phát hiện thêm, khi ở Hải Dương, y còn mưu việc cướp bóc (45)! Thật là một vụ án động trời!
Triều đình vào những tháng đầu năm Ất hợi (1875) đã dồn dập bao chuyện vui buồn!
Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường có một niềm vui riêng của mình cũng là niềm vui chung của Bộ, đó là những dự kiến trong năm về cải cách một số điều khoản, sửa định luật lệnh nói chung đã được đình thần bàn nghị, và nhà vua duyệt y, chuẩn cho thi hành. Nhất là vào hạ tuần tháng ba, “Hưng Yên, Thanh Hoá theo lệ (tiết đông rét theo lệ có cấp phát), trích tiền nộp chuộc tội phạt roi, phạt trượng, cấp cho tù phạm, [thông] tư Bộ [Hình] làm phiếu trình lên. Vua y cho nhưng phê bảo rằng: “… Ngoài ra chớ quá lạm. Đều [trích] lục, sức [:truyền] cho biết cả”” (47) . Điều đó với thượng thư Nguyễn Văn Tường là niềm vui thật ngọt ngào trong công tác.

6

Tháng ba nguyệt lịch, ngày mậu tuất trong tháng, trời đất bỗng tối sầm như Khâm thiên giám dự tính:
Nhật thực (48)!
Mười một tháng ba Nam lịch (14.04.1875), theo thư thông báo của Nước Cộng hoà Pháp, của Phủ suý Gia Định, và với sự đồng ý của triều đình nhà Nguyễn, lễ hỗ giao “hoà” ước Giáp tuất 1874 được cử hành tại kinh đô Huế (49). Vì thế, kì thi hội năm nay phải đình hoãn (50).
Thượng thư Nguyễn Văn Tường, Kì Vĩ bá, nguyên phó sứ, được phong làm khâm phái đại thần, cùng với thượng thư Bộ Công Phạm Ý, sung làm phó khâm phái, đã đón tiếp sứ bộ Pháp do bá tước thiếu tá hải quân Brossard de Corbigny (Ba Long Bô) dẫn đầu, Regnault de Premesni (Lê Nho) làm phó sứ. Đó là buổi lễ đại diện hai nước trao cho nhau “hoà” ước Giáp tuất 1874, bản “hoà” ước đã được hoàng đế Tự Đức và quốc trưởng (tổng thống toàn quốc) Pháp phê chuẩn. Và “hoà” ước bắt đầu được tính thời hiệu từ ngày đó.
Buổi lễ được tổ chức hết sức long trọng trước sân bên ngoài lầu Ngọ Môn (49), bên trong kinh thành Huế.
Sau đó là nghi thức lưu niệm ngoại giao, hai bên trao tặng các thứ quà biếu của hai nước cho hoàng đế và quốc trưởng cũng như các quan chức tham dự vào việc kí kết, hỗ giao “hoà” ước Giáp tuất 1874. Tất nhiên trong đó có quà tặng bằng khánh vàng cho “tướng mới Du Bi Lê [Dupré], một chiếc; lại nghĩ Du Bi Lê năm trước đã sung làm tướng cũ, [lại] tặng riêng [thêm] một chiếc” (49) , thành hai!
Có một điều rất lạ là tên tướng Pháp Dupré, sau một thời gian về nước, tên tướng Krantz thay, nay y lại đổi tên (?) là Duperré, qua Gia Định tiếp tục làm thống đốc Nam Kì lục tỉnh.
Sau lễ hỗ giao, sứ bộ Pháp được vào triều yết. Đối với nghi lễ nước ta, việc cho sứ thần nước ngoài được triều yết là một sự lệ đặc biệt, tỏ sự ưu ái về ngoại giao. Hôm ấy, trong lúc thân phiên, đình thần đang nghiêm trang tham dự buổi lễ, có lẽ không nén được lòng tò mò, hiếu kì vì lần đầu trông thấy người Pháp, nên Tòng Hoá quận công Miên Trữ, Trấn Tĩnh quận công Miên Dần và hai viên tri huyện kinh sư khác “cúi xuống nhòm trông” (51), “ngẩng trông, nói nhỏ, cười sẽ” (51) . Chẳng qua, vốn lâu nay trong hoàng tộc, quan chức, dân gian cũng ít người có dịp gặp gỡ người Âu Mỹ, “da bạch tạng, tóc râu ngô, mắt xanh, mũi lõ”, nhất là không thể có dịp đứng gần để nhìn cho thật rõ da dẻ mắt mũi họ! Vả lại, mặc dù từ lâu trong nước ta đã có bóng dáng các cố đạo Tây dương, nhưng thật ra họ chỉ được tiếp xúc rất hạn chế, hầu như chỉ với giáo dân.
Khi chấm dứt nghi lễ triều yết, bốn vị ấy và những quan chức, hoàng thân có chức trách liên quan hoặc liên hệ gia đình liền bị vua Tự Đức quở trách và giáng phạt, vì thiếu lịch sự tối thiểu, khiến sứ thần Pháp có thể chê cười người Việt ta về cung cách giao tiếp (51)!
Dẫu sao, lễ hỗ giao “hoà” ước Giáp tuất 1874 cũng hoàn tất.
Dĩ nhiên, một cách rất ngẫu nhiên, tháng ấy, vào ngày mậu tuất, hiện tượng thiên văn nhật thực đã xảy ra. Trong dân gian có lắm người giải thích một cách thần bí, ngây ngô, nhưng không phải sai lầm trong thực tế, rằng Đất nước đang bị ma quỷ ám chướng! Hiện thực lịch sử và hiện tượng thiên văn theo cái nhìn thần bí, một đôi khi, lại trùng hợp, mặc dù chỉ tình cờ.
Đối với vua Tự Đức, triều đình, quan lại và sĩ phu, trước ngày hôm nay một năm hai mươi chín ngày (15.03.1874), tại Gia Định, quả thật, là một ngày quốc hận thứ hai, sau ngày kí kết “hoà” ước Nhâm tuất (05.06.1862). Lễ hỗ giao này chỉ là chính thức hoá ngày quốc hận ấy mà thôi. Và thế là trận chiến ngoại giao, thương mại đã đến ngày diễn ra trên cả nước, nhưng chủ yếu là ở tuyến sông Hồng và các cửa biển phải mở cửa, mở cửa trong vận bỉ của dân tộc. Bấy giờ, triều Nguyễn, kẻ sĩ và toàn thể nhân dân ta hẳn không ngờ Tổ quốc còn lắm ngày quốc hận, mãi cho đến một trăm năm sau (ba mươi tháng tư, một chín bảy lăm: 30.04.1975), non sông mới thống nhất thành một mối!
Sau khi tiến hành lễ hỗ giao xong, Brossard de Corbigni và Regnault de Premesni còn ở lại tại Sứ quán Huế, nơi gần sông An Cựu (52), để cùng hai khâm phái đại thần Nguyễn Văn Tường, Phạm Ý bàn định một văn bản quy ước về phạm vi hoạt động và chức năng giới hạn của khâm sứ Pháp tại kinh đô nước ta.
1. “Xe ngựa, võng lọng của khâm sứ nước ấy giống như tham tri nước ta.
2. Khâm sứ nước ấy đóng ở nước ta không phải nộp hạng thuế lệ nào.
3. Người nước ta không được tự tiện dự việc gì trong dinh thự viên khâm sứ ấy; bộ thuộc của viên ấy cũng không được tự tiện dự vào việc gì ở dinh thự các quan nước ta.
4. Người theo hầu của khâm sứ nước ấy hoặc can phạm khoản gì, ta bắt giao cho viên khâm sứ [để] theo lẽ công bằng xử trị.
5. Văn thư của viên khâm sứ ấy giao cho người nước ta, không được bóc ra tự tiện xem.
6. Khâm sứ nước ấy đến công thự của Thương bạc đại thần, phải đưa giấy thông báo cho biết.
7. Nước ấy đưa thư cho nước ta, [nếu nội dung thuộc về] việc nước ấy, do khâm sứ ấy xét trước, chuyển sang; [nếu nội dung thuộc về] việc nước ta, do viên lãnh sự nước ta [tại Gia Định] xét trước, chuyển sang.
8. Tham biện của khâm sứ ấy bằng lang trung nước ta, kí lục bằng tư vụ.
9. Quan đại thần đóng ở kinh [đô] của hai nước, làm việc công gì, đều chiểu theo lễ tục nước ấy.
10. Sắc thư nước ấy đưa đến cho đại viên đóng ở kinh thành nước ta, thì đại viên ấy phải mặc triều phục bưng đến giao cho Thương bạc đại thần nước ta xem xét.
11. Khâm sứ nước ấy mua gỗ làm dinh thự, thứ nào là hạng cấm, không được mua bán.
12. Người theo hầu của khâm sứ ấy không được tự tiện vào trong kinh thành, [kể] cả nơi cấm ở ngoài thành.
13. Nước ta đặt quan lãnh sự đóng ở Gia Định, cũng giống như với các nước đặt ra.
14. Binh thuyền nước ấy đến cửa biển Thuận An, thì chiểu theo khoản thứ hai mươi sáu (26) của thương ước đã định (không được quá một chiếc thuyền, không được chở binh khí)” (53)
.
Văn bản quy ước này dẫu không thật quan trọng, nhưng cũng phải tranh luận rất gay gắt để giữ được quy cách làm việc của quan chức hai bên lẫn vẻ tôn nghiêm và thể thống của kinh đô một Đất nước có chủ quyền.
Trong những ngày sau đó, tại Hải Dương, triều đình đồng ý cùng người Pháp tạm làm dinh thự Sở Thương chính (54). Và Sở Lãnh sự Hà Nội cũng như vậy, tại khu vực Đồn Thuỷ thuộc tỉnh cố đô. Bởi thương ước Giáp tuất chưa làm lễ hỗ giao với sự phê chuẩn của vua Đại Nam và tổng thống Pháp, nghĩa là chưa có hiệu lực (thời hiệu), nên vật liệu chỉ là tre tranh, địa điểm cũng tạm thời, không phải Đồn Thuỷ mà là Trường thi Hà Nội (54).
Trước đó, nguyên là phó sứ rồi chánh sứ, trực tiếp bàn định, kí tên, đóng dấu vào hai cưỡng ước “hữu nghị” và thương mại 1874, nay thượng thư Nguyễn Văn Tường hiện đang kiêm quản Nha Thương bạc, do đó ông phải theo dõi, chỉ đạo việc kí kết quy ước giữa Trần Đình Túc và Varaigue (tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tại Nam Kì) vào cuối năm Giáp tuất (11.01.1875), về địa điểm xây dựng Lãnh sự quán Pháp tại Hà Nội (55). Địa điểm quy định là “vùng Đồn Thuỷ, ven sông Hồng” . Nhưng rồi Lãnh sự quán Pháp lại tạm đặt tại Trường thi tỉnh cố đô, mặc dù cũng phải có thêm một quy ước về chỗ đóng tạm này, sẽ kí kết giữa Trần Hy Tăng và Brionval (đại diện của Varaigue) vào ngày 30.05.1875 (55), tức là mười sáu hôm sau ngày làm lễ hỗ giao cưỡng ước “hữu nghị” Giáp tuất tại Huế (14.04.1874).
Việc thành lập, xây dựng Sở Thương chính Hải Dương, Lãnh sự quán Pháp tại Hà Nội và Sứ quán Pháp tại kinh đô Huế trong thực tế không phải là việc đơn giản. Không đơn giản là bởi, trong quan hệ ngoại giao nghìn xưa đến nay, giữa nước ta và các nước châu Á Tế Á (Asia) cũng như các châu lục khác, không hề có việc chấp nhận khâm sứ, lãnh sự. Không kể một nghìn năm bị Tàu với các thái thú chiếm đóng, bóc lột. Không kể thời Hồ Quý Ly để mất nước vào tay nhà Minh Trung Hoa. Từ khi Ngô Quyền mở ra kỉ nguyên độc lập, từ khi Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh đến nay, ngay cả đối với “thiên triều” (!), nước ta cũng không chấp nhận có khâm sứ, lãnh sự Trung Hoa thường trú trên Đất nước mình, chứ đừng nói việc thành lập Nha Thương chính Pháp – Việt! Sở Thương chính là gì? Thực chất đó là cơ quan hải quan và thuế vụ. Can cớ gì người Pháp lại đóng vai trò song song với người Việt ta trong lãnh vực ấy, vốn thuộc chủ quyền nước ta? Thực chất, đó là sự nhân nhượng. Ta chấp nhận cho Pháp cùng ta chia đôi thuế thương chính để bù vào số tiền “bồi thường chiến phí” ngạo ngược, kể cả “bồi thường” cho Tây Ban Nha! Nhưng thuế ấy không chỉ đánh vào tàu thuyền xuất nhập khẩu của người buôn Việt mà cả người buôn Hoa, Pháp, Đức, Anh và nhiều quốc tịch khác. Mới xem qua, thấy Pháp đâu bóc lột gì người Việt, mà chỉ thu thuế của khách thương không phải người Việt. Thực chất, mọi nguồn thu thuế ngoại thương từ các khách thương bất kì nước nào đến buôn bán trên nước ta đều thuộc chủ quyền, sở hữu nước ta, mà người Pháp đã dùng bạo lực súng đạn và sức mạnh thập giá “tả đạo” để cướp lấy. Cửa hải quan và nguồn thu thuế ngoại thương từ ngàn xưa trên nước ta đã được tổ chức, thực thi. Đâu phải mới mẻ gì! Vấn đề là tại sao cửa hải quan và trạm thu thuế ngoại thương hiện tại lại có sự hiện diện của Pháp và chia đôi với Pháp!?!
Vấn đề là thế đó! Đã bị bức chiếm, bị bức ước, phải đành đoạn mất đứt, mất “vĩnh viễn” (!) Nam Kì lục tỉnh, ấy là cả một nỗi phẫn hận lớn và khôn nguôi. Lại còn bị một thực trạng đau xót thường xuyên đập vào mắt: Dinh Khâm sứ thường trú (tại Huế), Sở Lãnh sự thường trú (tại Hà Nội, lại có một trăm [100] tên lính Pháp bảo vệ đóng đồn) và Sở Thương chính thường trú Việt – Pháp (tại Hải Dương, cũng có một trăm [100] tên lính Pháp), thu thuế chia đôi! Đó là cả một sự bạo ngược phi lí về phía Pháp, là một sự nhân nhượng đến mức phải nói là nhẫn nhục, quá đỗi đau xót về phía Đại Nam. Chính vì sự thể đó, nên sĩ phu, nhân dân, quan chức, triều đình và cả vua Tự Đức đều thấy bị xúc phạm, bị cướp bóc trắng trợn, trắng trợn một cách công nhiên, ngay trên phần lãnh thổ còn lại thuộc vương quốc Đại Nam (từ Bình Thuận đến Cao Bằng)! Đã thế, bọn thực dân Pháp vẫn cứ tìm đủ cách, đủ mánh khoé để lừa đảo, bắt bí, lấn ép các quan tỉnh, Nha Thương bạc, triều đình Huế từng chút một.
Vì vậy, vấn đề mới xem qua là rất đơn giản, nhưng thực chất không đơn giản chút nào. Những quy ước về địa điểm đóng Sứ quán, Lãnh sự quán và Sở Thương chính (còn gọi là Sở Thuế đoan) diễn ra không đơn giản vì thế!
“Sách lược thoả hiệp tạm thời”, hay theo cách nói của vua Tự Đức và đình thần, “dùng người Man đánh người Man”, có nghĩa là dùng người nước Thanh đánh người nước Thanh (tiễu phỉ), dùng người Pháp để đánh bọn tay sai ôm chân Pháp (“phù Lê”, “tả đạo”), có thể kể cả việc thuyết phục tên thực dân trí thức ít nhiều còn nhân bản là Philastre nhằm ngăn cản bọn Pháp, để dập tắt nguy cơ thù trong, giảm bớt nguy cơ giặc ngoài. Sách lược ấy phải đành trả giá khá đắt như vậy đó. Trong sách lược này, vai trò “hiệp sĩ phi chính phủ, hành đạo trừ tà” Lưu Vĩnh Phúc rất đáng kể. Sách lược ấy là đối sách vừa nhằm mục đích thanh toán thù trong vừa không gây khích biến với hai thế lực Pháp và Trung Hoa, một đang xâm lược trắng trợn, một đang liên minh nhưng có nguy cơ lật lọng, nguy cơ đầy đe doạ là sẽ “ăn chia” với Pháp! Hơn ai hết, thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường, đại thần Viện – Bạc, trực tiếp kiêm quản Nha Thương bạc, thấm thía những khó khăn và nỗi đau nhân nhượng ấy, nhưng ông cũng tự hào phần nào khi sách lược “dùng người Man đánh người Man” có hiệu quả thực tế: các lực lượng xuẩn động ở Bắc Kì dần dần im bặt, sau khi mười hai ngàn (12.000) tên “lính bản xứ” cùng hàng trăm tên khác, cỡ như ngụy tổng đốc thợ rèn tên Trương, bị rơi vào thế “tự lật tẩy”.
Tháng ba Ất hợi, Khâm thiên giám đã dự đoán sẽ xảy ra nhật thực!
Quả thật, đúng như thế. Mặt trời bỗng dưng tắt hẳn. Đất trời bỗng dưng tối sầm.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường bình tâm nhìn nhận, cân nhắc lại hai cưỡng ước “hữu nghị” và thương mại Giáp tuất 1874: Được những gì và mất những gì? Tất nhiên, phía ta, không ai lại không đau lòng khi kí kết hai cưỡng ước như thế! Tất nhiên, không ai chấp nhận cái gọi là cưỡng ước trong một tình hình khác, thuận lợi hơn và sáng sủa hơn, ấy là không có giặc Cờ, thổ phỉ, hải tặc, “phù Lê”, “tả đạo” ở Bắc Kì, và binh lực ta hùng mạnh hơn. Năm Tự Đức thứ hai mươi mốt (1868), khi còn làm việc chuộc tội với chức năng khâm phái ở huyện Thành Hoá, được gia hàm thị độc học sĩ để sung vào sứ bộ dự định sang Pháp và các nước châu Âu, Nguyễn Văn Tường đã chẳng phản đối quyết liệt, đồng thời vạch trần âm mưu Pháp lừa ta ngồi vào bàn “hoà” nghị đó sao (56)?
Trong tình thế ngặt nghèo, bị bức bách, sự chuyển nguy làm yên, chuyển bại hẳn thành thắng lợi với chừng mức nhất định, chỉ đến thế, nhưng ông tự nhủ đã gắng gỏi hết sức mình cho Đất nước Đại Nam ruột thịt, yêu dấu.

7

Những tên giám mục, linh mục mang bản chất thực dân cuồng bạo như Gauthier (Ngô Gia Hậu), Croc (Phê Chính Hoà), nghe tin phái đoàn Pháp do Brossard de Corbigny và Regnault de Premesni làm chánh, phó sứ đến Huế, chúng liền tới dinh tỉnh Nghệ An, dinh đạo Hà Tĩnh để làm reo, kêu đòi bồi thường cho giáo dân trong cuộc nội chiến lương – giáo Nam Đàng Ngoài (57)! Cũng như những đời giáo hoàng La Mã đích thực là trùm thực dân (58), cũng như giám mục Pugnier ở Hà Nội, với Gauthier, Croc, không thể gọi chúng là gì nếu không chỉ đích danh là thực dân, một thứ gián điệp khoác áo tu sĩ Thiên Chúa giáo, biến tôn giáo này thành “tả đạo” xâm lược, nô dịch.
Trước tình hình ấy, Viện – Bạc, đình thần cùng vua Tự Đức đã nhận định, bàn luận. Cùng với bốn bản sắc dụ quan trọng trong hai tháng cuối năm ngoái, Giáp tuất (1875):
1. Dụ sĩ dân Bắc Kì,
2. Dụ về tình trạng lính xuất thân từ Bắc Kì,
3. Dụ mở rộng ngôn luận,
4. Dụ về chiêu bài “phù Lê” mị dân (13) (14),

lúc này, nhà vua lại ban thêm một sắc dụ thứ năm, đập mạnh và sâu vào “tả đạo”:
5. Dụ về việc đòi “bồi thường” cho giáo dân (trong cuộc nội chiến lương – giáo Nam Đàng Ngoài!) (57) .
Tuy thế, ngay sau khi đạo dụ thứ năm đã ban ra, chính cả Brossard de Corbigny và Regnault de Premesni cũng với các tên giám mục, linh mục thực dân Gauthier (Ngô Gia Hậu), Croc (Phê Chính Hoà) tiếp tục kêu đòi “bồi thường” (59)! Hết đòi “bồi thường chiến phí” cho chúng để chúng mua sắm, sản xuất súng thép, tàu đồng và nuôi dưỡng bọn viễn chinh cướp nước ta, cướp các đất nước khác, nay chúng lại đòi “bồi thường” cho bọn phản quốc nội loạn, lực lượng hậu thuẫn cho quá trình xâm lăng của chúng! Trong khi đó, thực chất của cuộc nội chiến lương giáo Nghệ – Tĩnh lại được bản dụ chỉ rõ: “Như việc năm trước, dân lương gây ra trước [vì dân giáo theo giúp Françis Garnier], rồi dân giáo nối theo trong đám náo loạn, ai phân biệt cong thẳng? Hoạ tự làm ra thì oán lại ai? Dân lương hay dân giáo đều là dân ta, thì đều là con đỏ của ta. Tự thù hằn nhau, đã là không nên, lại thù hằn với người Pháp, còn ra thế nào? […] Huống chi lại chống cả người Pháp, chống cả quan… […] … Việc ấy cốt nhiên có kẻ xướng xuất mà dân ta bị lừa dối mà thôi. Ôi! Ai xướng xuất là bất nhân quá lắm […]. Lại nghe nói dân giáo hoặc còn kêu bậy không thôi. Không biết dân [theo tôn giáo] của ngươi [:Gauthier, Croc] sao lại nói thế? Ngươi chỉ ngang ngược để gây ra biến, nên mới đến thế. Chúng [:dân lương] cũng chỉ vì dân [giáo] của ngươi để đến bị hại. Ngươi sao còn có không công bằng? Như bảo, dân giáo của ngươi nhiều người bị chết, dân lương há không chết nhiều ư? Bảo rằng của cải dân giáo mất nhiều, dân lương bị mất, so với ngươi há lại chẳng gấp đôi ư? Nếu hết thảy phải đền [cho] ngươi, thì dân lương bị mất, sẽ ai phải đền?… Trong khi chiến tranh, ngọc, đá đều cháy […]. Triều đình xử trí cho hai bên không ngờ ghét nhau…” (57) .
Đồng thời với những kêu đòi “bồi thường” ngược ngạo đó, Pháp lại một mực nằng nặc yêu sách triều đình Đại Nam loại trừ “hiệp sĩ phi chính phủ, hành đạo trừ tà” Lưu Vĩnh Phúc. Kêu đòi ngược ngạo đó lại diễn ra trong khi nhiều tỉnh ở Bắc Kì, nhân dân đang bị mất mùa, lâm vào cảnh thiếu đói!

Hết tệp 10
(phân đoạn 2 truyện kí thứ 8)

Khởi viết truyện kí thứ tám này
vào lúc khoảng 07 giờ sáng,
ngày 17.11.2002 (13.10 Nh. ngọ, HB.2).
Viết đến dòng chữ cuối của truyện kí thứ 8 lúc 16 giờ kém 10 phút,
ngày 30.11.2002 (24.10 Nh. ngọ, HB.2).
Sữa chữa xong vào lúc 15 giờ 24 phút,
ngày 04.12.2002 (01.11 Nh. ngọ, HB.2).


TRẦN XUÂN AN


(28) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 146 – 147.

(29) Nguyễn Đắc Xuân (biên soạn), Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành, bài của Đào Duy Anh trong Bulletin des amis du vieux Huế (1941), Bùi Trần Phượng dịch, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 25.

(30) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 157.

(31) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., 1974, tr. 59 – 60, 307.

(32) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 164.

(33) Câu đối của Nguyễn Văn Tường do nhà thơ Lương An sưu tầm. Xin xem: KVPCĐT. NVT. T. VNVCNTH. & TT., bản in vi tính, 2000 (chưa có điều kiện xuất bản), bản dịch nghĩa của Nguyễn Tôn Nhan và bản dịch vần của Trần Xuân An, tr. 77 – 79.

(34) KVPCĐT. NVT. T. VNVCNTH. & TT., sđd., thơ Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), bài số 62, bản dịch nghĩa của Nguyễn Tôn Nhan và bản dịch vần của Trần Xuân An, sđd., 2000, tr. 369 – 376.

(35) KVPCĐT. NVT. T. VNVCNTH. & TT., sđd., thơ Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), bài số 59, bản dịch nghĩa của Nguyễn Tôn Nhan và bản dịch vần của Trần Xuân An, sđd., 2000, tr. 355 – 361.

(36) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 159.

(37) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 161.

(38) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 159.

(39) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 163.

(40) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr.164 – 165.

(41) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 163 – 164.

(42) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 276 – 277.

(43) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 170.

(44) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 176.

(45) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 169 – 170.

(46) QTHKL., sđd., 1993, tr. 309.

(47) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 189 – 190.

(48) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 177.

(49) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 177 – 178.

(50) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 168.

(51) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 179 – 180.

(52) Sứ quán cũ vốn ở gần sông An Cựu, nơi để tiếp sứ thần các nước. Đến tháng tư, năm Tự Đức thứ 29 (1876), Sứ quán Pháp mới được phép xây dựng tại chỗ đất của Trường Thuỷ quân (nay là Đại học Sư phạm Huế).

(53) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 180 – 181.

(54) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 181.

(55) Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (VN., NSKLS.), tập 1, Nxb. KHXH., 1981, tr. 176 – 177.

(56) ĐNTL.CB., tập 31, sđd., 1974, tr. 202 – 204.

(57) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 186 – 189.

(58) Machiavel, Quân vương (Le Prince), Phan Huy Chiêm dịch, Nxb. Quảng Hoá, 1968, tr. 48 – 53; Trần Tam Tĩnh (linh mục, giáo sư, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Canada), Thập giá và lưỡi gươm (Dieu et Céçar, [dịch thoát]), Vương Đình Bích (linh mục) dịch, Nxb. Trẻ, 1988, tr. 14 – 15. Theo Machiavel, cha đẻ của Céçar Borgia là giáo hoàng Alexandre VI. Nhân vật lịch sử Céçar Borgia cũng giống như hình tượng Tào Tháo trong Tam quốc diễn nghĩa ở thủ đoạn sử dụng “bung xung”. Theo linh mục Trần Tam Tỉnh, giáo hoàng Alexandre VI đã ra sắc chỉ “Giữa những điều khác (Inter caetera, 04.5.1493)” và trước đó, giáo hoàng Nicolas sắc chỉ “Giáo hoàng Rôma (Romanus Pontifex, 08.01.1454)” để cho phép và ủng hộ Tây ban Nha, Bồ Đào Nha đi xâm lược tất cả những nước “ngoại đạo”, khởi đầu của những thế kỉ chủ nghĩa thực dân Phương Tây hoành hành trên các châu lục Á, Phi, Mỹ, Úc (châu Đại Dương). Nguyên văn sắc chỉ 08.01.1454 được dịch và trích dẫn như sau: “Toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Xaradanh (Sarrasins tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của giáo hội, gặp bất cứ nơi nào; được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn” (sđd., tr. 15).

(59) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 190.

Soạn xong phần chú thích
vào lúc 19 giờ 24 phút,
ngày 06.12. 2002 (03.11 Nh. ngọ HB.2).


TRẦN XUÂN AN


HẾT TỆP 10
(PHÂN ĐOẠN 2 TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Xin xem tiếp TỆP 11
(phân đoạn 3 truyện kí thứ 8)
thuộc tập II bộ sách “PCĐT. NVT.”

Thursday, December 15, 2005

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập II B 9)

Tệp 9 - Tập II Blog B
(PHÂN ĐOẠN 1, TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Sẽ đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm
số tháng 12-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm


TRẦN XUÂN AN

CUỘC CHIẾN NGOẠI GIAO
VÀ NGOẠI THƯƠNG


Truyện kí thứ tám
(phân đoạn 1)

1

Những ngày hạ tuần tháng mười một ở kinh đô Huế năm nay vẫn như mọi năm, lất phất mưa và lạnh buốt. Mùa đông nơi trung tâm của Đất nước không rét khô, cũng không mưa xối xả, ào ạt. Mưa Huế vào quý cuối năm cứ lâm thâm, rả rích như mưa phùn xứ Bắc. Hôm nay, trời hơi hửng nắng, cũng là cái nắng thường thấy xen kẽ trong những ngày mùa đông.
Ngồi ở Tả vu Điện Cần chánh, thượng thư Nguyễn Văn Tường đang bàn luận công việc cơ mật với hai thượng thư khác, Nguyễn Tư Giản và Lê Bá Thận. Cả ba người đều là quan chính khanh sung Cơ mật viện đại thần. Thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành đang nghỉ bệnh. Ông đang khổ sở với chứng bệnh mạn tính ở đường tiêu hoá, chứng bệnh từ nhiều năm nay cứ thỉnh thoảng lại trở nặng, hành hạ ông (1). Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản trở thành người có thâm niên cao nhất ở Viện Cơ mật – Thương bạc, thường quen được gọi tắt là Viện – Bạc này.
Với giọng nói của xã Du Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, huyện giáp giới với Hà Nội, chỉ cách cố đô một con sông Hồng, thượng thư Nguyễn Tư Giản (2) nêu vấn đề về tham tán Ông Ích Khiêm:
- Tướng họ Ông này vừa rồi được quan tổng lí Thương chính Phạm Phú Thứ ưu ái viết sớ dâng lên vua xin lục dụng. Nhà vua đã châu phê, các quan ở Nội các mới chuyển qua cho Viện – Bạc ta. Bây giờ Viện – Bạc ta phải có ý kiến, sau đó đức vua sẽ duyệt như lệ thường. Tất cả hồ sơ quan tịch của Ông Ích Khiêm và cả sớ của quan họ Phạm, chúng ta ở đây cũng đều đọc rồi. – Thượng thư Nguyễn Tư Giản chờ ý kiến của hai đại thần đồng sự –.
- Cho đọc lại để mọi người cùng bàn. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường nói như thể tiếp lời –.
Một vị quan tham biện cầm sớ đọc:
“… Ngày gần đây tướng tài ở đất Bắc chỉ có Tôn Thất Thuyết và viên phải cách [chức] là Ông Ích Khiêm là hơi khá. Nay Ích Khiêm cáo bệnh ở nhà. Thần lần này về quê, đi qua thăm hỏi, viên ấy nói: “Bệnh cũ ngày một hết, tuổi ngày thêm nhiều, không ra mưu toan báo đáp, là phụ ơn, phụ lòng”. Xét về lời nói, hỏi những thân thích, hàng xóm, thì bệnh viên ấy đã khỏi. Kính xin ban ơn cho Ích Khiêm theo thần đến tỉnh [Hải Dương], tạm cấp cho chức hàm giúp việc coi quân, uỷ cho tên ấy hết sức làm việc, thần vẫn điều khiển. May nhờ uy linh nhà vua, [tình hình] có thể ít việc được, thần được chuyên tâm về việc buôn… […] Không dám lấy tình riêng cùng châu, cùng làng, giúp địa vị cho tên ấy” (3).
- Quan tham biện đọc những dòng châu phê luôn!
- Bẩm, xin vâng.
“Ích Khiêm đổi hết lỗi trước, không cho quân đi cướp bóc, không cậy khoẻ mà vô lễ, không giấu điều xấu, phô điều tốt, tới việc mà biết sợ [:lo xa tính gần], chuộng mưu mà được việc, quân có kỉ luật mới được. [Ngươi tuổi đã] già thì nghĩ biết điều [sai] trái; [trẫm] giao [viên ấy cho] người khéo cảm hoá” (4) .
- Thế là bệnh tâm hoả của tướng họ Ông đã khỏi. Tôi cũng mừng cho tướng ấy.– Thượng thư Nguyễn Văn Tường mỉm cười –. Ai chứ Ông Ích Khiêm thì tôi quá hiểu tính khí. Tài rất lớn nhưng tật cũng quá lớn, đến nỗi cố Vũ hiển điện đại học sĩ Nguyễn Tri Phương, thống đốc Hoàng Tá Viêm cũng không chịu nổi! Nhưng sắp xếp như thế là tốt rồi. Đã có quan họ Phạm bảo lãnh và kìm giữ, may chăng Ông Ích Khiêm phát huy được tài cầm quân mà hạn chế được tâm tật vô kỉ luật!
- Ở Bộ Lại, Bộ Binh, hồ sơ về tướng họ Ông này chất đầy một ngăn tủ!
- Như vậy là chỉ còn chuyển giao cho hai bộ ấy lo liệu. – Thượng thư Lê Bá Thận nói –.
- Đồng ý như vậy thì qua mục khác. Ta cố gắng bàn luận cho xong. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường đồng ý –.
- Ở Bắc Ninh quê tôi, án sát sứ cũng là họ Ma đấy (5). Hay nên tâu lại với đứùc vua, xin chuyển Ông Ích Khiêm về quân thứ Bắc Ninh?
- Án sát sứ Bắc Ninh? Họ Ma ở tỉnh nào?
- Quảng Bình. Đủ tên họ là Ma Xuân Vinh (Ma Thế Vinh), quê ở xã Thuận Bài, huyện Bình Chánh, đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ mười một, Mậu ngọ (1858) (5). – Quan Bộ Lại Nguyễn Tư Giản trả lời –.
- Về sau hẵng hay. Ông, Ma, Trà, Chế hay Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn thì cũng như nhau, đều đã là đồng bào cả. Nay cứ theo bản sớ, quan tổng lí Phạm Phú Thứ muốn có Ông Ích Khiêm để giúp việc quân, để ông ấy rảnh tay lo việc thương chính. Viện – Bạc ta cứ tiến hành như bản sớ và lời châu phê chuẩn y. Đâu có việc gì khẩn cấp, bức thiết mà phải xin đức vua châu phê lại! Không khéo lại bị trách cứ. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại mỉm cười –.
Ba đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc đều nhất trí.
Buổi làm việc của Viện – Bạc còn kéo dài đến hết buổi sáng. Ba đại thần phân tích, nhận định từng vụ việc một. Trong khi đó, các quan tham biện, tư vụ lục soạn, trình bày, ghi chép các dữ liệu, gồm cả những tấu, sớ, châu phê, châu điểm…
Khoảng đến gần giờ ngọ, trời sáng hẳn và hơi nóng nực, nếu vẫn còn mặc áo ấm. Các quan đại thần lên kiệu trở về tư dinh ở khuôn viên lục bộ, ngoài cửa Hiển Nhơn, bên trái hoàng thành.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường bỗng bồi hồi nhớ lại những ngày còn là tán lí quân vụ ở biên giới phía bắc. Những năm tháng ấy, ông đã nhiều lần chuyện trò thân tình với Ông Ích Khiêm và cũng nhiều lần sát cánh với Ông Ích Khiêm tiễu phỉ. Ông lại nhớ, hồi tháng sáu nhuận năm Quý dậu (1873), hơn mười sáu tháng trước, lúc mới về kinh nhận nhiệm vụ sung vào sứ bộ, đình thần đã xử án Ông Ích Khiêm. Từ đó, Ông Ích Khiêm bị cách chức, về quê, với căn bệnh tâm hoả vốn có… Thượng thư Nguyễn Văn Tường bồi hồi mỉm cười, thầm bảo: Ông Ích Khiêm là một nhân vật có một không hai trong các danh tướng quái kiệt xưa nay! Ông mong Ông Ích Khiêm sớm ra kinh đô làm thủ tục để ra Bắc. Hẳn tổng lí Thương chính Phạm Phú Thứ hiện ở Hải – Yên cũng đang mong mỏi, trông ngóng tướng họ Ông.

2

Sau một hôm dự thiết triều, hôm nay Viện Cơ mật – Thương bạc lại họp.
Vẫn ở Tả vu Điện Cần chánh, ba đại thần phụ trách ba bộ trong sáu bộ, Bộ Lại, Bộ Hình, Bộ Lễ, sung đại thần Viện – Bạc lại họp bàn các công việc như thường lệ. Đây là phiên họp cuối tháng mười một, cũng là phiên họp bàn giao để thôi đảm nhiệm thêm chức vụ này của thượng thư Nguyễn Tư Giản.
Nhìn hai vị quan đồng sự, thượng thư Nguyễn Tư Giản hơi hé môi cười trước khi nói:
- Ôm đồm quá nhiều công việc, nào là việc Bộ Lại, việc Quốc tử giám, việc Viện – Bạc, hoàng thượng lại bảo cho đồng kiêm sung việc của Nha Thương bạc, trực tiếp giao thiệp với tướng Pháp, khâm sứ Pháp, quả thật là tôi làm không xiết! Vì vậy, nên cuối cùng không một việc nào thật trọn vẹn! Nay được hoàng thượng cho giảm việc ở Viện – Bạc (6), thật lòng tôi hơi buồn, hơi tiếc điều kiện để báo đáp ơn sâu quân phụ, nhưng cũng khá mừng. Trong phiên họp sau, thượng thư Bộ Hộ Trần Bình sẽ vào họp với hai đại quan.
- Đức vua phân công, phân nhiệm… Nhưng cũng là ý của quan thượng thư Bộ Lại đó thôi. Dẫu sao những buổi dự thiết triều, ý kiến của quan Bộ Lại vẫn có thể đóng góp tổng quát và cụ thể cho các bộ khác cũng như cho Viện – Bạc. – Quan Bộ Hình Nguyễn Văn Tường đỡ lời –.
Trên bàn làm việc, một bộ khay chén trà đã được bưng ra.
Vừa nhấp những ngụm trà đầu tiên, ba đại thần vừa tiếp tục công việc.
Quan Bộ Hình kiêm quản Nha Thương bạc Nguyễn Văn Tường nói:
- Theo tinh thần cuộc họp mấy hôm trước, và đức vua cũng đã đồng ý để Viện – Bạc chúng ta bàn tiếp, về việc viết thư cho phủ suý Pháp, nhờ họ mua giúp tàu chiến để trang bị cho quân binh ta tiễu phỉ (7). Nha Thương bạc tôi tuân chỉ dụ, lấy những ý kiến của Viện – Bạc để viết thư gửi phủ suý Gia Định. Bây giờ xin các đại thần bàn lại, xem có gì phải sửa chữa, bổ sung không.
Quan tham biện đã cho chép sao ra ba bản, trình lên ba đại thần. Dưới ánh đèn nến trong những chiếc lồng thuỷ tinh mỏng chiếu xuống và trong ánh sáng hơi âm u của buổi sáng mùa đông từ cửa lớn toả vào, họ im lặng, trầm ngâm đọc và suy nghĩ.
- Quan Bộ Hình họ Nguyễn đã chấp bút thì còn chê vào đâu được. Theo tôi, như thế cũng đã quá đầy đủ rồi. – Quan Bộ Lễ Lê Bá Thận gật gù cuối câu nói –.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường vẫn muốn mọi thành viên của Viện – Bạc phải thật sự lưu ý:
- Có gì xin các quan cứ đóng góp. Đây cũng chỉ là văn thư hành chính sự vụ, nhưng vấn đề là làm sao vừa giữ thể cách vừa diễn đạt được yêu cầu ta đề xuất.
Sau một lúc bàn bạc, đóng góp ý kiến và ghi chép, đề mục oái oăm này đã được thông qua. Họ lại bàn một vấn đề khá buồn cười, thuộc về phong tục người Âu và người Á. Chả là sản vật biếu tặng theo thủ tục ngoại giao, triều đình chuyển vào cho phủ suý Pháp, không ngờ lại gây sự hiểu lầm là thiếu tế nhị, khiến tên tướng Pháp tại Gia Định cảm thấy bị khinh khi. Chuyện rất nhỏ nhưng có thể rất thất thố và gây mất lòng một cách không đáng có, do chưa thật hiểu phong tục Pháp. Hoá ra người Pháp không thích được biếu tặng trâu và dê (8), họ xem như thế là bị xúc phạm! May là tên tướng Pháp này cũng thuộc loại lính tráng, nói huỵch toẹt ra là y chỉ thích được tặng biếu thịt ngựa (8) thôi. Đối với người Việt, thịt ngựa lại không được ưa chuộng!
- Viện Cơ mật – Thương bạc mà lại bàn luận những việc vớ vẩn như thế, thật buồn cười quá! Nói cụ thể chuyện miếng thịt trâu, miếng thịt dê thì buồn cười thật, tuy nhiên, không thể buồn cười được nếu khái quát lên thành vấn đề lớn, là phong tục, tập quán. Trong lĩnh vực ngoại giao, chuyện vặt cũng không thể xem thường, nữa là phong tục, tập quán của dân tộc mình và dân tộc đối tác –. Thượng thư Nguyễn Văn Tường bỗng nghiêm túc hẳn lại –. Đây là một kinh nghiệm ngoại giao cần ghi chép lại. Tôi những mong Viện – Bạc, cụ thể là Nha Thương bạc của tôi phải hỏi han, sưu tập thành một cuốn sách về phong tục, tập quán các nước châu Âu, nhất là nước Pháp, sau đó là Y Pha Nho, Anh, Đức… Ngành Thương bạc phải rất am hiểu khía cạnh ấy mới dễ thành công. Trong lịch sử nước ta, đã từng có những nhà ngoại giao kiệt xuất. Trong kho tàng giai thoại về ngoại giao của ta cũng thế. Nhưng đó là quan hệ giữa Việt – Hoa và với các nước lân bang châu Á. Quả thật, với châu Âu, ta tiếp xúc ít ra là bốn trăm năm nay rồi, nhưng cũng chỉ qua quýt, thành ra lần này hơi thất thố, cái thất thố không đáng có! Phải cố gắng có một cuốn sách như vậy.
Ba đại thần nhất trí. Đề mục tiếp theo của buổi họp lại là vấn đề sắc dụ của nhà vua gửi cho sĩ dân Bắc Kì và phản hồi từ Bắc gửi vào.
Quan tham biện đọc:
“Dụ rằng: Thói quen làm thay đổi lòng người quá lắm! Không có người hiền và người có đức vọng ở dân đứng lên mà sửa chữa, thì khó lắm thay!
Bắc Kì từ trước đến nay phong tục vẫn kiêu bạc, xa xỉ, phóng đãng, tuy trong đó có nhiều lương gia, thiện sĩ, nghĩa phu, tiết phụ. [Người tốt] cố nhiên không ít, nhưng dân du thủ, du thực, ngoan phu, đãng tử, gái đĩ bợm, [kẻ] buôn gian giảo, lại không biết gấp mấy. [Thói thường] càng chuộng hào phóng, [thì] quẫn bách đến ngay! [Do vậy] phàm việc giả danh, phạm nghĩa, không việc gì là không làm! Từ trước đến nay, [bọn xấu ở Bắc Kì] chợt yên, chợt động, cố tật không thể bỏ hết được. Trong đó, Bắc Ninh, Thái Nguyên là quá lắm, rồi thứ đến [là] Hải – Yên và Tam Tuyên [Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang]. Hà Nội vốn gọi là nơi đô hội phồn thịnh mà trộm cướp thường phát ra, [khiến] dân chúng sợ không đâu [:luôn nháo nhác!]. Chỉ hạt Nam Định cũng gọi là nơi đất tốt, mà lòng người hơi được thuần thục, thật thà, còn là khá. Kìa như Phạm Văn Nghị, Doãn Khuê, Đỗ Phát [người Nam Định], các người ấy cũng là người nhà nho lão luyện, là vị hưu quan, thế mà biết vì nước dạy bảo dân, không đến nỗi để lo cho triều đình. Ngoài ra như bọn Nguyễn Bỉnh, Lê Đình Diên [người Hà Nội], Nguyễn Thành, đều là người có danh vọng của sĩ dân. Lại những người trẫm không thể biết hết được, chỗ nào cũng có. Sao lại không biết dạy dân, bảo học trò, khiến cho đổi điều ác làm điều lành, trừ kẻ bạo ngược, cho dân yên, để thư lòng lo về miền Bắc [phương Bắc: Trung Hoa?] của trẫm?
Nay giặc nước Thanh trốn lẩn, lấn át bờ cõi ta, làm xóm làng ta xiêu bạt, cướp nhục con trai, con gái ta, chính phải cùng căm thù, địch với kẻ [đáng] giận, thề tất đánh một trận, giết và đuổi hết đi, mới tỏ ý giữ gìn [bờ cõi], [xóm làng] giúp đỡ nhau. Tại sao lại dung túng cho kẻ du đãng của ta, hại lương dân ta, giúp cho bạo ngược thêm lên? [Thế] thì bất nhân càng quá lắm! Quan lại, tướng hiệu vỗ yên, đánh dẹp đã bất lực; thầy trò khuyên bảo lại không có [phương] thuật! Trẫm sao lại có thể nằm yên một khắc được!
Từ nay về sau, [trẫm] thực muốn các quan chăn dân các địa phương, cha anh thầy bạn trong làng đều lấy lòng lành, nết tốt dạy bảo con em, [cho tất cả đều] đổi điều lỗi, theo điều lành, đều đến [với] đạo [lí] hay [đẹp của dân tộc] cả, để đáp ứng chí của trẫm. Chớ coi thường lời nói của trẫm” (9)
.
Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản cố giấu niềm xấu hổ, một cảm giác rất tự nhiên của con người khi nghe lời chê trách, dẫu bên cạnh lời chê trách ấy vẫn có sự khẳng định, động viên nét tốt, về một vùng đất, nơi đó có bản quán của mình. Thật ra, chính ông, ông đã tham gia vào việc hình thành nên bản dụ ấy của vua Tự Đức trong những lần họp Viện – Bạc trước đây. Tuy vậy, dẫu muốn nhìn thẳng vào sự thật dân tình Bắc Kì, ông vẫn có chút gì nghèn nghẹn và nhột nhạt, mắc cỡ.
Sau một thoáng bối rối, thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản nói:
- Vấn đề là những phản hồi của sĩ dân Bắc Kì. Bản dụ đã được tuyên đọc và niêm yết khắp đất Bắc hơn mười hôm rồi. Quan tham biện cứ nêu rõ những ý kiến của sĩ dân để các quan cùng bàn.
Hai vị quan tham biện, phụ tá của Viện – Bạc, nêu lên những ý kiến thu thập được. Thượng thư Nguyễn Văn Tường nói:
- Tình hình Bắc Kì, bản thân tôi có đến năm năm ở ngoài ấy, tôi rất rõ. Trước đây, hồi tháng sáu nguyệt lịch, năm Tự Đức thứ hai mươi ba (1870), tôi đã có một bản tấu về tình hình các tỉnh xứ Bắc (10)… Nhận định chung về Bắc Kì là đáng buồn như vậy, dẫu vẫn có rất nhiều người tốt, làng tốt… Nay, lại đọc, lại nghe bản dụ và những ý kiến sĩ dân phản hồi, thì đúng là cũng không khác hơn. Có một điều, Nam Định lại được nhà vua đánh giá cao, vì đó vốn là một nơi tuy có nhiều giáo dân nhưng cũng là nơi “sát tả” nhiều nhất. Tôi thấy từa tựa như Nghệ – Tĩnh của Bắc Trung Kì.
Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản gật đầu:
- Vâng, đó là điều cần lưu ý. Phải thừa nhận hoàng thượng có ẩn ý rất sâu sắc.
- Bắc Kì và giặc Tàu các loại quả là một khó khăn lớn của bản triều… – Thượng thư Bộ Lễ Lê Bá Thận nói khái quát, và không có ý kiến gì khác, ông bỏ lửng câu nói –.
Ba đại thần đều im lặng, trầm ngâm suy nghĩ. Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường nhìn ra ngoài sân, thấy nền sân lát gạch với những chậu hoa đủ loại xanh ngắt lá đang hửng lên dưới nắng gần cuối đông.
- Nếu không có ý kiến gì thêm, tôi mạn phép đề nghị chúng ta bàn về tên Nguyễn Văn Phương từ đất Bắc Kì chạy vào Nam Kì (11). Nhưng may là tên Phương này chỉ không có giấy tờ, chứ cũng chưa có ý cầu viện để phản loạn. Tuy nhiên, không phải tên nào trước đây và hiện nay cũng như tên Phương ấy, mà còn có khá nhiều những tên không thoả chí khác của Bắc Kì, cũng chạy vào Gia Định giả thác cớ này cớ khác, yêu cầu tướng giặc xâm lăng Bắc Kì, như hồi năm ngoái! Thật là dân gian tặc vô sỉ! Lần này, chính tướng Pháp lại bắt Nguyễn Văn Phương giải giao cho tỉnh Bình Thuận. Vụ tên Nguyễn Văn Phương này là một trong những nguyên nhân sâu xa và tức thời để nhà vua ban sắc dụ vừa rồi.– Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường nói tiếp –. Bộ Hình tôi đã được lệnh dụ xử thật nặng tên Nguyễn Văn Phương này (11). Theo hai quan lớn, như vậy, Viện – Bạc chúng ta đồng ý cho Bộ Hình tuân chỉ?
- Viện – Bạc đã tâu, nhà vua nhất trí, chuẩn y, thì chỉ cứ việc thi hành. Đây là vụ không có điều gì phải bàn lại, tâu lại. Quan lớn Bộ Hình xin cứ thi hành như thế.
- Tôi nghĩ, nên chăng, Viện – Bạc chúng ta cũng cần phải bàn luận để tâu xin nhà vua giải quyết thật rốt ráo vấn đề Bắc Kì. Đây là phiên họp cuối của thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản, mong quan lớn họ Nguyễn làng Du Lâm cho ý kiến. – Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường đề nghị –.
Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản gật đầu với cái mỉm cười:
- Vâng, chúng ta cứ nêu ra từng khía cạnh một, để cùng bàn.
Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường chợt lặng người trong một hồi tưởng. Ông nhớ đến Đoàn Thọ, đại tướng quân người An Giang, giữ quyền tiết chế thống lĩnh ba đạo quân ra Bắc năm nào với một bản tấu của ông ấy về tình trạng lính Bắc Kì (12). Và một vấn đề khác của thực trạng Bắc Kì là chiêu bài mị dân “phù Lê”. Cả hai vấn đề ấy đã nổi cộm từ lâu, ai cũng biết, nhưng chưa lần nào giải quyết thật rốt ráo. Suy nghĩ, đắn đo một lúc, ông nói:
- Hẳn phải phân tích thực trạng lính của triều đình xuất thân từ Bắc Kì. Và phải phân tích rõ trên cơ sở lịch sử vấn đề “phù Lê”.
Ba đại thần bàn từng khía cạnh một thật kĩ lưỡng. Các quan tham biện, tư vụ ghi chép luôn tay không nghỉ.
Khoảng cuối giờ tị (mười một giờ), muộn hơn thường lệ, Viện – Bạc mới ngừng cuộc bàn thảo.
Ngoài sân, nắng đã gần đứng bóng.
Trong tháng mười hai, không chỉ hai mà đến ba đạo dụ quan trọng của vua Tự Đức được ban bố (13). Trong khi bàn luận về các ý tưởng để tâu trình lên vua về ba đạo dụ này, với sự có mặt của thượng thư Bộ Hộ Trần Bình, cũng có sự hiện diện của thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành, trong những buổi làm việc ông gắng gượng đi được. Ngoài hai đạo dụ về hai vấn đề trong phiên họp cuối tháng mười một đã bước đầu bàn thảo, còn có một đạo dụ khác về việc mở rộng đường ngôn luận cho quan lại và sĩ dân (14). Mục đích của đạo dụ này là để từ đó, quan dân có quyền được tâu bày ý kiến của riêng mình và cũng để triều đình hiểu hết ý dân.

3

Thượng thư Nguyễn Văn Tường vẫn thường xuyên lo điều hành, chỉ đạo các công việc của Bộ Hình ông trực tiếp đảm trách. Từ khi nhậm chức, ông thấy cần phải cải cách một số điều khoản hình luật và công tác thi hành luật. Đó là những gì cần phải thay đổi càng sớm càng tốt. Trong thời gian này, công việc Nha Thương bạc chỉ là các văn thư trao đổi với thống đốc Nam Kì thuộc Pháp, còn Sứ quán vẫn chưa tới thời hạn để khâm sứ Pháp đến thường trú.
Sáng nay, không phải là ngày vào Điện Cần chính dự thiết triều, nghe tấu sự và đình nghị, cũng không phải đến Viện – Bạc ở Tả vu để bàn việc cơ mật, ông đang cẩn trọng xem xét những vấn đề thuộc Bộ Hình:
++ Những tấu nghị đã nghiên cứu cẩn trọng và đã được phê chuẩn:
a. Tháng mười một: Đề xuất định lại lệ xử thêm bậc về mức phạt trong khoá thanh tra, truy buộc bồi thường không được việc. Vua Tự Đức đã chuẩn y tấu nghị này (15).
b. Tháng mười hai: Đề xuất định lại điều lệ bắt kẻ phạm chuộc tội (lấy công truy bắt kẻ bị truy nã để chuộc tội). Bộ Hình kiến nghị không chuẩn cho bọn phạm nhân tái phạm chuộc tội kiểu ấy lần thứ hai, mà phải đền tội. Đã được chuẩn y (16).
++ Những tấu nghị cần bàn thêm trong nội bộ Bộ Hình trước khi xin nhà vua xem xét và đình nghị:
a. Đề xuất giải quyết án hình đã tuyên phạt còn tồn đọng, đồng thời trình lên các bản án ở kinh đô và ở các tỉnh còn để đọng, chưa xét xử, ở các tỉnh Bắc Kì và tỉnh cực bắc Trung Kì: Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thanh Hoá. Tất cả có đến tám trăm bốn mươi ba (843) vụ chưa kết án, bảy trăm năm mươi ba (753) người hiện còn giam cứu (17). Đây là một trong những yêu cầu khẩn thiết của phạm nhân và thân nhân họ. Kẻ có tội phải được công khai xét xử sau khi điều tra kĩ lưỡng, không nên giam cứu quá lâu, khiến để xảy ra tình trạng người vô tội, trắng án nhưng vẫn bị tù oan. Mở rộng ra, ấy là khát vọng về công lí của nhân dân, cụ thể là mong được công khai xét xử.
b. Đề xuất định lại lệ nộp tiền chuộc tội xuy trượng (phạt roi, phạt gậy), đặc biệt quan tâm, chiếu cố đến những người lương thấp, phụ cấp thấp hoặc nghèo khó, như ngũ trưởng binh đinh, hạng thợ thuyền làm thuê (giảm 50%, vì tha cho tất cả thì không biết lấy gì để làm răn), cũng không phân biệt phạm nhân là người trong kinh hay tỉnh ngoài. Phải định rõ quy chế thu tiền chuộc tội để khỏi sinh các tệ nạn tiêu cực (18).
++ Theo sắc dụ, chuẩn bị sắp xếp một số quan viên chức để đến tháng hai nguyệt lịch sang năm sẽ tiến hành sửa định luật lệnh. Sau khi sửa định xong, ban tu chính sẽ soạn lại thành sách “Đại Nam tụ trân điển lệ hội biên” (19) .
Đang mải mê đọc lại, suy nghĩ và ghi chú vào sổ riêng, thượng thư Bộ Hình nghe tiếng bẩm báo của một viên lính trực nhật:
- Bẩm, kính trình quan thượng thư, có viên lính của Bộ Lại trao danh thiếp quan thượng thư bên ấy.
- Ngươi vào đi.
Viên lính bước vào thư phòng, thi lễ, và trao tấm danh thiếp đặt trên một chiếc khay nhỏ bằng gỗ, được chạm trổ những hoa văn rất tinh tế, có nạm xà cừ lóng lánh.
Liếc mắt, biết danh thiếp của Nguyễn Tư Giản và những giòng chữ hẹn sẽ đến gặp để bàn chuyện tại Bộ Hình, thượng thư Nguyễn Văn Tường mỉm cười, cầm bút lông viết vào mấy chữ: “Mong sẽ diện kiến cuối giờ thìn (09 giờ)”.
- Ngươi đem ra trao cho viên lính trực nhật của Bộ Lại.
- Bẩm, vâng.
Người lính thi lễ rồi lui ra với chiếc khay nhỏ trên hai tay.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường ngẫm nghĩ lại việc xét xử hai vụ án mới đây. Một vụ về án tại Quảng Nam, phạm nhân Nguyễn Văn Nhuận chém chết mẹ kế là Lê Thị Luận. Vụ này, Bộ Hình đưa ra mức án nhẹ hơn mức ở tỉnh trình lên, nhưng nặng hơn mức đình thần nghị xử (20). Một vụ khác, án tại Bình Định, kẻ phạm Dương Văn Kiều thay đổi tên khác để đi làm. Vụ thứ hai này do luật chồng chéo, phải nghị xử lại. Đó là hai vụ mà án sát của hai tỉnh đều lúng túng không biết vận dụng luật thế nào, bèn trình báo về Bộ Hình. Các quan chức tại Bộ trực tiếp giải quyết cũng lúng túng, ngay cả ông, thượng thư Bộ Hình, quả thật cũng thấy sự lúng túng đó rất là khó tránh. Khi đình nghị, vua Tự Đức cũng phải trách: “Các quan có trách nhiệm, phàm gặp việc gì khác thường khó xử, đều ghi án giữ riêng hoặc ghi vào điển lệ để tiện lâm thời xem xét. Thế mới là để tâm về việc nước. Tại sao người giữ chức vụ mờ mịt chẳng biết” (20); “một mặt thì dẫn nghị cũ khoảng năm Minh Mệnh, một mặt thì dẫn nghị mới năm Tự Đức thứ hai mươi sáu, đều cho là phải cả, hầu theo đường nào” (21) . Đâu phải vua Tự Đức trách nhẹ lời! Bao giờ nhà vua cũng cứ quở trách với giọng điệu hoàng đế! Sự thể, chả là luật chưa thật thống nhất, nhất là do những điều khoản thay đổi, luật Tự Đức phủ chính luật Minh Mệnh, nhưng luật Minh Mệnh vẫn còn hiệu lực (thời hiệu). Ngoài ra, có những tội danh hình sự không có trong khung luật. Do đó, nhà vua, đình thần cũng thấy rõ như kiến nghị của Bộ Hình, là không thể không cấp tốc đồng thời phải rất cẩn trọng, trong việc tu chính lại luật lệnh, để các án sát, các quan thuộc Bộ Hình khỏi lúng túng, khỏi suy diễn, “chế biến” luật và mức án. Thượng thư Nguyễn Văn Tường cũng đã sắp xếp xong nhân sự của ban tu chính, đang chờ vua phê duyệt: Vũ Khoa (hữu thị lang Bộ Hộ), Phan Sĩ Thục (biện lí Bộ Hình), Chu Duy Tĩnh (lãnh Giám sát ngự sử), Ngô Quý Thông (Nội các thị độc) và các nha lại thuộc lục bộ (19).
Đúng vào cuối giờ thìn, thượng thư Bộ Lại Nguyễn Tư Giản đến. Hai vị thượng thư thi lễ chào nhau và cùng ngồi xuống bộ tràng kỉ tiếp khách ở tiền sảnh. Người lính hầu bưng khay chén trà ra, xin phép được rót trà ra hai chiếc chén sứ đặt trên hai chiếc đĩa đồng bộ.
- Sáng nay, tôi định trao đổi cụ thể với quan Bộ Hình và Nha Thương bạc về mức giáng cấp Trần Đình Túc và mức Nguyễn Tăng Doãn bị phạt bổng một năm. Đó cũng thuộc vụ việc của Nha Thương bạc, chúng ta đồng kiêm sung.– Thượng thư Nguyễn Tư Giản nói –. Tôi chẳng hiểu vì sao hai vị ấy lại trái lệnh, cho tàu thuỷ của Tây chở hàng buôn của người Hoa, lại còn cho bọn Pháp một trăm thước ta đất để di táng Françis Garnier (22)!
- Chẳng qua là vì hai vị ấy vội vàng, sơ suất. Trước đây, việc tàu các nước Tây chở thuê hàng hoá cho người buôn nước Thanh, đã chuẩn cho nghiêm cấm, phải đợi sau khi định thương ước mới thi hành. Thế mà hai vị ấy lại cho Dujardin đáp tàu để chở. Và, nói cho chính xác, họ cho phái viên Pháp đắp thêm khu đất di táng Françis Garnier khoảng một trăm thước ta. Cả hai việc đều không hợp pháp. – Tôi nghĩ ai cũng có những sơ suất không đáng có –. Triều đình phải phạt để giữ kỉ cương. Nhưng… Không biết bên quý Bộ Lại đã nhận thông tư chưa, về việc tổng lí Thương chính Phạm Phú Thứ tâu xin cho đoàn thuyền Jean Dupuis chở hàng cho người Hoa khách thương chỉ một lần để y kiếm chút lợi, bù vào lộ phí. Đoàn tàu của tên Pháp tặc ấy lâu nay không được di chuyển nên cũng quẫn bách. Vua chuẩn nhưng bảo y phải nộp thuế (23).
- Đúng là thời buổi rất khó xử vì có lắm điều thật oái oăm.
- Thôi thì cứ xem đó là một thứ gò Đống Đa mà Tây Sơn chôn xác quân Thanh năm nào vậy, và cứ làm phúc cho tên Jean Dupuis một lần, để tỏ ra triều đình ta không hẹp hòi. – Thượïng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường nói –.
- Cũng trao đổi thêm tí chút cho rõ thế thôi. Bộ Lại tôi đã thi hành theo lệnh chuẩn y. – Thượng thư Nguyễn Tư Giản ngập ngừng –. Chẳng hiểu quan Bộ Hình nghĩ sao, chứ tôi thấy ba bản sắc dụ của nhà vua vừa ban hành rất chí lí. Hẳn là mọi người dân, mọi sĩ phu không phàn nàn gì. Vấn nạn Bắc Kì, với chiêu bài mị dân là “phù Lê”, thật quá sức dai dẳng!
- Còn bản dụ phân tích binh lính của triều ta xuất thân từ Bắc Kì? Chắc cũng có tác dụng như bản dụ phân tích trên cơ sở lịch sử về bọn “phù Lê”? Hôm họp Viện – Bạc chúng ta cũng đã bàn. Và hai bản dụ ấy nhà vua cùng ban xuống một lần với bản dụ “mở rộng đường ngôn luận của sĩ dân” (14) là rất phù hợp. Tôi thấy vậy. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại nói –.
- Thật đúng như thế. May chăng như thế mới giải quyết tận gốc vấn nạn “phù Lê”. Đúng là nhà Lê đã mất vào tay nhà Mạc, Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim là người có công trung hưng nhà Lê, nhưng bị họ Trịnh soán quyền. Vua Lê, chúa Trịnh đều mất vào tay Tây Sơn Nguyễn Huệ. Cuối cùng Thế tổ Cao hoàng đế Nguyễn Ánh lấy lại vương quyền từ Tây Sơn. “Thế là lấy thiên hạ ở tay Tây Sơn, nhà Lê đâu có dự gì” (24) . – Thượng thư Nguyễn Tư Giản nói –. Chuyện biến dịch trong lịch sử thì vô cùng, nhưng thế cũng là biến dịch đúng đạo.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường muốn nói rõ là vua Tự Đức cần minh định như thế để đánh tan âm mưu của Pháp muốn lợi dụng chiêu bài ấy để kích động dân ta. Thật sự, trong bản dụ có viết rất rõ: “Năm trước như Tạ Văn Phụng, ngày gần đây như Hồ Văn Vạn, hoặc giả xưng là con cháu nhà Lê, hoặc nói dối là con cháu thờ nhà Lê, dấy quân nơi bãi biển, ngấp nghé mong làm [việc] không phải [đạo], thậm chí xướng lên cầu tướng nước Pháp cùng giúp…” (24) . Vua cũng nói rõ khi thiết triều: “Nước Pháp mới cùng ta hoà, tuy không nói rõ về [việc Pháp] giúp kẻ ác, cũng nên đem nguyên uỷ việc nhà Lê bảo bằng giấy tờ, một là để giải sự nghe lầm của dân ta, một [nữa] là để ngăn lòng khác của tướng nước Pháp” (24) . Thế là đã minh định rất rõ rồi! Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại mỉm cười chua xót khi nghĩ đó là một động lực thúc đẩy buộc vua Tự Đức phải đau lòng “tranh thủ kẻ mạnh”, để Pháp và “tả đạo” không ngả về phía “phù Lê” (mà kẻ trá mạo cam tâm theo làm tay sai cho Françis Garnier là Lê Duy Quý), và từ đó, dẫn đến việc đành phải kí kết “hoà” ước Giáp tuất 1874 với Pháp. Sự biến Bắc Kì với bốn tỉnh bị thất thủ mặc dù là động lực xô đẩy chính, nhưng không thể không kể đến thứ động lực nguy cơ kia! Có một điều, ông hiểu vì sao vua Tự Đức không khẳng định công lao mở nước từ Phú Yên đến Cà Mau của chúa Nguyễn. Bản đồ nước ta từ nghìn xưa đến nay, dưới thời Nguyễn vẫn là rộng lớn nhất. Ông lại chợt nhớ bài thơ ông viết khi thăm mộ Lê Văn Duyệt (25). Quận công họ Lê này có những hạn chế về cuối đời, nhưng công bình Tây (đánh dẹp Tây Sơn, Tây Sơn vốn lâm vào cảnh huynh đệ tương tàn), công lao ấy vẫn là rất lớn đối với nhân dân tả Trung kì và Nam Kì, vốn là thần tử (tôi con) của các chuá Nguyễn, họ muốn sống hoà bình quanh ngai vàng nhà Nguyễn!

Lạy trời cho cả gió nồm
Cho thuyền chuá Nguyễn dong buồm thẳng ra!


Ca dao Nam Bộ chẳng hát lên như thế đó sao?
Những vấn nạn lịch sử lại thêm một phần gay go là thế đó… Ông lại nhớ đến một trong những thầy học cũ là thân phụ của Lê Đình Dao, người không muốn gọi Tây Sơn là ngụy, xem Tây Sơn như một lực biến dịch để thống nhất, một khi Đất nước chia làm âm – dương chia cắt, tương khắc, chiến tranh đến hai trăm năm. Công lao của Quang Trung Nguyễn Huệ, thống nhất Đàng Trong – Đàng Ngoài, đánh tan ngoại viện của hai Đàng, là rất vĩ đại. Lực biến dịch để thống nhất Đất nước không thể là ngụy được! Có thể chỉ vì như thế mà vị thầy đồ làng Bồ Bản lận đận thi cử một đời (25)!… Cuộc nội chiến hai trăm năm, Trịnh – Nguyễn phân tranh, là tội ác của chuá Trịnh, chuá Nguyễn đối với lịch sử chăng? Nhân dân hai Đàng chẳng ta thán đó sao! Nhưng dẫu sao, nhà Nguyễn (thời các chúa Nguyễn…) vẫn có công lao rất vĩ đại đối với Đất nước (buộc phải thu phục, khai phá phương nam trong điều kiện lịch sử – cụ thể), nên vẫn chính danh, chính nghĩa trong việc giành lại ngai vàng từ tay nhà Tây Sơn (25). Chẳng lẽ một nửa Đất nước phía nam (Đàng Trong) do chín đời chuá Nguyễn lãnh đạo nhân dân xây dựng và khai phá, ròng rã hai trăm năm, lại dễ dàng để cho Tây Sơn chiếm lĩnh? Công lí, đạo lí lịch sử – cụ thể thời phong kiến, quân chủ kia mà! Hơn nữa, Bùi Đắc Tuyên đã xui đẩy nhà Tây Sơn đến chỗ suy tàn! Vận nhà Tây Sơn ngắn ngủi chỉ có thế!
Thượng thư Nguyễn Văn Tường nghĩ thầm trong lòng mình: Thầy đồ làng Bồ Bản (thân phụ của người bạn đồng hương Lê Đình Dao), đã nhận thức, đánh giá rất đúng: ông xem Quang Trung Nguyễn Huệ là vĩ đại khi vị vua ấy như một lực biến dịch để thống nhất giang sơn chia cắt hai Đàng về một mối. Nhận định đó xem ra mâu thuẫn với sự đề cao vai trò chính danh, chính nghĩa của các chuá Nguyễn và các tiên đế Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Thực ra, không nước đôi, không ba phải, không mâu thuẫn gì cả, bởi phải xem xét ở góc độ này, vai trò lịch sử này, thời đoạn lịch sử này, đồng thời phải xem xét ở góc độ kia, vai trò lịch sử kia, thời đoạn lịch sử kia…
Ngẫm nghĩ một lúc, ông không muốn sa đà theo mạch kí ức về lịch sử và về bản sắc dụ của vua Tự Đức, thượng thư Nguyễn Văn Tường chợt hỏi quan Bộ Lại về việc họ Lưu:
- Bọn Pháp lại muốn ép ta bạc đãi Lưu Vĩnh Phúc. Lưu Vĩnh Phúc lại chỉ muốn ở Bảo Thắng thuộc tỉnh Hưng Hoá, ấy là nơi cửa ngõ thông thương của tuyến sông Hồng (26)! Quan Bộ Lại thấy sao?
- Quan Bộ Binh Trần Tiễn Thành cũng đã tâu trình về việc này. Thống đốc Hoàng Tá Viêm đang điều động họ Lưu đánh dẹp giặc Cờ vàng Hoàng [Sùng] Anh (26).
- Thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành lại trở cơn đau bụng, xin nghĩ lại rồi. Nếu có thể, hai chúng ta cùng qua tư dinh Bộ Binh thăm ông ấy một chút. Quan Bộ Lại thấy có tiện không? - Thượng thư Nguyễn Văn Tường ngỏ ý –.
- Khuôn viên lục bộ này đâu có xa cách gì! Sao lại không tiện nhỉ! Ta cùng đi nhé.
Hai thượng thư cùng mỉm cười, đứng dậy, bước ra cửa.
Kinh đô Huế trong những ngày cuối năm nay lại hừng nắng, nắng rất tươi thắm trước vuông sân rộng của Dinh Bộ Hình. Dinh thự Bộ Hình và Bộ Binh toạ lạc gần kế nhau trong khu vực Lục Bộ. Dinh thự Bộ Lại của Nguyễn Tư Giản gần hoàng thành nhất, kế đến: Bộ Hộ, tiếp theo: Bộ Lễ, rồi cách một con đường dọc (con đường từ cửa Thượng Tứ chạy vào đến trường Anh Danh, hồ Tịnh Tâm…), là Bộ Binh. Từ Bộ Binh đi sang Bộ Hình khoảng dăm chục bước. Dinh thự Bộ Hình cận kề dinh thự Bộ Công cũng một quãng cách đều bằng nhau như vậy. Lục Bộ gồm sáu toà nhà chính xếp thành hình chữ nhất (27).
Hồi nãy, khi từ Bộ Lại đến Bộ Hình, chiếc kiệu của thượng thư Nguyễn Tư Giản đã đi ngang trước cổng các bộ khác, chỉ mỗi một cổng Bộ Công là khỏi.
Lúc này, chuẩn bị lên kiệu, Nguyễn Tư Giản còn bày tỏ băn khoăn của mình:
- Tôi cũng có ý định muốn bàn chuyện với quan Bộ Hình về những tâu báo trong tháng này của sứ bộ Phan Sĩ Thục (28). Tình hình nước Thanh nay cũng chẳng khác gì nước mình. Bọn Tây dương cũng đã gây nổ bùng mâu thuẫn Hán – Mãn để xô đẩy Trung Hoa nhà Mãn Thanh đi đến tệ hại như ngày nay!
- Thái Bình thiên quốc nổ ra từ năm Tự Đức thứ bảy (1854), thời Cao Bá Quát nổi loạn kia! Đúng là Trung Hoa bây giờ cũng rách nát lắm! Và vấn đề là do các nước Tây dương liên minh với nhau! Các nước Á Tế Á (Asia, Asie), A Phi Lị Gia (Africa, Afrique), Nam Mỹ Lợi Kiên (South America, Sud Amérique) lại bị cô lập hoá và bị li gián. Nhật Bản lại đang xâm lược Cao Ly, Lưu Cầu với chủ trương “chinh Hàn”, “chiếm Lưu” mặc dù bản thân đất nước Nhật Bản, một đất nước luôn động đất và nghèo kiệt nông sản, khoáng sản, đang bị biến thành bàn đạp cho bọn thực dân da trắng… Thôi, xin quan Bộ Lại để hôm khác. Bây giờ ta cùng sang Bộ Binh thăm quan lớn họ Trần… Ông ta bị bệnh lị mạn tính (29).
- Sao trông quan thượng Bộ Binh da thịt hồng hào, đỏ đắn đến thế?
- Cũng chẳng hiểu… Có lẽ nhờ thuốc thang tẩm bổ… Nhưng chúng ta chưa kịp báo trước, đến Dinh Bộ Binh đường đột thế này có nên không?
- Quan thượng còn nghỉ việc mà. Có lẽ không sao đâu. Mà này, hoàng đế Đại Thanh Đồng Trị vừa mới mất (30), quan Bộ Hình hay tin chưa?
- Tôi cũng vừa được thông tư. Người lên nối ngôi sẽ là hoàng tử Tái Quát (30).–Thượng thư Nguyễn Văn Tường nói –. Nhưng quyền lực vẫn trong tay Từ Hy thái hậu! Hẳn không có gì thay đổi…
Hai người lên kiệu. Họ lại cùng xuống kiệu ở chỗ kế cận bậc tam cấp của tiền sảnh Dinh Bộ Binh.
Sau một vài phút cho lính vào bẩm báo, hai người thấy quan thượng thư Bộ Binh trong bộ áo quần dài thường phục ra đón tiếp. Họ thi lễ chào nhau.
- Mời hai đại quan dùng nước. – Quan Bộ Binh nói khi người lính hầu rót nước vào ba chiếc chén –.
- Hai chúng tôi thật cũng hơi đường đột đến thăm quan thượng thư Bộ Binh…
- Khách khí mà làm chi! Thật tình tôi rất cảm ơn. Cũng bệnh ốm sơ sơ vậy thôi. Bệnh mạn tính thật rất khó lành hẳn!
Những câu, những lời chuyện vãn thăm hỏi về sức khoẻ giữa ba người rồi cũng dẫn đến những gì đang khiến họ suy tư, dẫu suy tư ở mỗi người không giống nhau.
- Ba sắc dụ của đức vua vừa rồi có nhiều phản hồi lắm đó.
Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường tiếp lời:
- Nhưng tôi thấy sắc dụ về “phù Lê” và sắc dụ “mở rộng đường ngôn luận” mới thật gây nên bàn luận sôi nổi. Đây là một nước cờ trên bàn cờ thế.
- Quả là đúng như vậy: một nước cờ trên bàn cờ thế. Đoạn cuối của sắc dụ phân tích cái “phù Lê”, chính đức vua cũng ngần ngại nhưng rồi đã quả quyết viết.
- Cơ mật viện – Thương bạc quả tình không dám quả quyết như thế. Sách lược “thoả hiệp với giặc Pháp và “tả đạo”” vừa có khả năng dập tắt những lực lượng xuẩn động ở Bắc Kì và trong cả nước, nhưng cũng có khả năng đổ dầu vào lửa. – Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường nhìn quan họ Trần và nói –. Tôi chỉ đề xuất phân tích cơ sở lịch sử để chứng minh sự chính danh, chính nghĩa của triều Nguyễn ta mà thôi.
Để chén nước lên đĩa, quan Bộ Lại Nguyễn Tư Giản băn khoăn:
- Những phiên họp sau tôi không họp, vì đã có chỉ dụ cho tôi thôi sung vào Viện – Bạc. Tuy nhiên, trong phiên họp khởi sự bàn việc này lại có tôi. Tôi vẫn nghĩ việc nói huỵch toẹt ra là triều đình ta mượn tay Pháp để tiêu diệt bọn “phù Lê” (cùng các loại hải tặc, thảo khấu, giặc Cờ) như thế sẽ khiến sĩ dân căm phẫn… Nhưng điều khoản thứ tư “hoà” ước Nhâm tuất (1862), điều khoản thứ hai “hoà” ước Giáp tuất (1874), chẳng đã viết thế là gì! Và thương ước Giáp tuất cũng thể hiện điều đó.
Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường gật đầu, và ông nói:
- Phải hiểu đó là một nước cờ trên bàn cờ thế. Tình huống như vậy ắt đành phải vậy. Mong sĩ dân hiểu rõ tình hình. Tôi vẫn ngại về sau, hậu thế sẽ nguyền rủa Cơ mật viện – Thương bạc.
Thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành vốn là một người chủ “hoà”, ông ta nhếch mép:
- Đã dấn thân vào Viện – Bạc là phải chịu trách nhiệm. Bốn vị đại thần Viện – Bạc đều gánh chung trách nhiệm ấy, và còn có cả đình thần lục bộ… Thời thế đã thế thì phải thế!
Viện – Bạc đại thần Nguyễn Văn Tường thật lòng thấy rõ những ý kiến của ông trong các tập tâu kí tên chung là “Viện – Bạc” chỉ là một trong bốn, và dẫu sao Viện – Bạc đại thần Trần Tiễn Thành vẫn cầm trịch, khuynh loát! Nhưng ông (Nguyễn Văn Tường) cũng đâu phải thuộc hạng người dám dấn thân lại không dám chịu trách nhiệm!
Thượng thư Nguyễn Văn Tường liền cố chuyển câu chuyện sang việc thăm hỏi sức khoẻ. Quan Bộ Lại Nguyễn Tư Giản hiểu ý, cũng tỏ lời mong sức khoẻ thượng thư họ Trần sớm hồi phục một cách xã giao.
Lát sau, thấy bóng nắng ngoài sân đã gần chiếu thẳng đứng, mực nước đồng hồ trong phòng khách tiền sảnh cũng chỉ rõ đang giữa giờ tị (10 giờ), hai người ngỏ lời chào quan Bộ Binh. Họ cùng bước ra hành lang, thi lễ chào nhau lần nữa để tiễn chân và cáo từ. Mỗi người vẫn suy tư một cách khác nhau trước đại cuộc, nhưng hẳn hai vị quan họ Nguyễn, một Nguyễn ở Bắc, một Nguyễn ở Trung, khác xa với quan họ Trần, người Minh Hương!
Trong khi quan Bộ Binh còn đứng trên hành lang, hai vị thượng thư Bộ Hình và Bộ Lại đã bước xuống sân, đi đến kiệu của mình. Nguyễn Tư Giản nói khi tới gần chiếc kiệu của Nguyễn Văn Tường:
- Mười mấy năm trước, khi Pháp bắt đầu đánh ta, quân ta sau những trận thắng lại bị bại nặng nề, tôi đã khẩn thiết dâng sớ xin triều đình vẫn chủ chiến, nhưng bấy giờ, tôi đã bị hai thượng thư Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản trách là “không so sánh sự lí” . Sau đó, phỉ đánh quân của Nguyễn Dũng ở huyện Cẩm Giàng, quân vỡ; chúng vây sát thành tỉnh Hải Dương, phải dâng sớ cáo cấp; tôi bị đức vua mắng là “Nguyễn Tư Giản chỉ nói khoác” (31) … Nay, tình thế đã vậy, chỉ còn biết phải canh tân. Năm hết Tết đến rồi, tôi định ra năm mới, sẽ làm tờ tâu dâng lên vua mười sáu tập sách Tây dương để mong vua ban dụ cho Ti Hành nhân của Nha Thương bạc ta dịch ra chữ Hán, chữ Nôm. Chỉ sợ là các hành nhân thông ngôn không dịch nổi! – Quan Bộ Lại nói –. Phải cầm cự, hoà hoãn và phải canh tân Đất nước, không còn cách nào khác.
- Đó những cuốn gì vậy? Thật là quá tốt. Tôi và Nguyễn Tăng Doãn cũng đã tiến dâng một số, khi từ Gia Định về.
- “Võ bị xưa nay”, “Ngữ pháp tiếng Pháp”, “Tập hợp những chính yếu về binh thư”, “Thuật lặn dưới nước”, “Thuật chế đạn công phá và phát hoả”, “Phương pháp bắn súng trên lưng ngựa”, “Luật quân đánh bộ” “Thao luyện kị binh” (32) .
- Đều là sách hay và rất cần thiết. Nhưng ở đâu mà Bộ Lại tìm kiếm được?
- Các quan tỉnh và sĩ dân tiến dâng lên vua.
- Thật rất đáng trân trọng!
- Thôi, bái biệt quan Bộ Hình. Ngày mai dự thiết triều, ta lại gặp nhau.
Hai người chia tay, mỗi vị lên kiệu của bộ mình.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường vẫn xác định rõ, ông không sợ trách nhiệm trong nước cờ lịch sử này, nhưng ông vẫn khẳng quyết “hoà là cơ nghi”, “chiến là tiên quyết và hậu quyết” , không thể khôi phục lại một phần chủ quyền của triều đình và lấy lại lục tỉnh Nam Kì bằng “hoà” nghị được! Ông cũng thường tự trào về mình: “Dĩ thần bất tài, giảng thuyết chiến hoà tam quốc sự; Duy quân sở mệnh, khi khu sơn hải thất niên gian” (Vì kẻ bầy tôi bất tài, nên mới giảng nói việc chiến hoà ba nước; Chỉ nhà vua với mệnh lệnh sẵn có, cam đành dằn xóc chốn núi biển bảy năm) (33) ! “Hoà” là việc bất đắc dĩ! “Hoà” và cứ “hoà” mãi, không canh tân về công nghệ, không chấn chỉnh binh lực, sẽ mất dần chủ quyền, mất dần nhân dân và Đất nước! Nếu cứ “hoà” và chỉ “hoà” như Trần Tiễn Thành thì viễn cảnh nộ lệ vào bọn Pháp và “tả đạo” ngoại xâm ấy sẽ không xa! Thật chua xót!
Trưa hôm ấy, mãi cho đến khi dùng bữa xong, thượng thư Nguyễn Văn Tường vẫn không thôi nghĩ ngợi về những lời tâu trình của chánh sứ sang nước Thanh Phan Sĩ Thục, khi sứ bộ đã về, vào bái tạ vua Tự Đức. Những tâu trình ấy, thượng thư Nguyễn Tư Giản và ông cũng như các đại thần chính khanh, á khanh đều có trực tiếp nghe, cũng đã cùng nhau bàn luận. Vừa rồi, Nguyễn Tư Giản lại nhắc đến với nỗi băn khoăn khi hai người đã sắp chia tay, lên kiệu tại sân Bộ Binh. Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Văn Tường không thể nào quên được tình hình nước Thanh qua lời chánh sứ Phan Sĩ Thục mới cách đây không bao lâu, chỉ ít hôm, cũng trong tháng chạp Ất hợi (1875) này.
“Đến khi bọn Sĩ Thục vào tạ, vua nhân hỏi rằng:
- Nước Thanh xử trí với nước Tây thế nào? Và chính sự của vua Đồng Trị, quan lại được hay hỏng thế nào? Thế nước có thịnh không?
[Phan Sĩ] Thục thưa rằng:
- [Tâu hoàng thượng,] nước Thanh đối với người Tây, chia đất cho ở [:nhượng địa]. Trấn Hán Dương, chỗ người nước ngoài ở có lập bia đá, khắc chữ: “Đại Anh quảng long địa giới”. [Bọn Tây dương cũng đã] làm nhà để ở. Chỗ ở [của chúng] đều dựng hiệu cờ để phân biệt. Tổng đốc Hồ Bắc là Lý Hàn Chương làm thông thương đại thần, để thông đi lại. Phủ thành Chính Định có nhà thờ đạo [Thiên Chúa] ở trong thành. [Tại kinh đô] Yên Kinh cũng vậy. [Về phản ứng của] sĩ phu, không nghe có lời bàn ngang. Người có kiến thức, [thảng] hoặc có người bảo rằng: Vua Đồng Trị tuổi còn ít, lại thêm vài mươi năm nay, quân mỏi mệt, của [cải] sút kém; tạm hãy chịu [tình trạng như vậy] để hồi hộ [:che chở, bênh vực cho…]. [Vua Đồng Trị] gần đây đã sắc xuống cho quân cơ sửa soạn phương lược dẹp yên ở Giang Tô, lại mở Cục Kĩ xảo [Cục Kĩ nghệ]. Các tỉnh [, vua nhà Thanh] sai tập súng Tây, lúc nào cũng tự cố gắng. [Ngoài ra,] còn như xử trí với người Tây ấy, ở chỗ quân cơ, bọn thần không nghe thấy. Vua Đồng Trị từ khi [đích] thân coi việc nước đến giờ, chính sự thì hết thảy tuân theo điển lệ trước, chuyên dùng bầy tôi cũ. Quan lại thì từ năm Hàm Phong đến giờ, đường làm quan phức tạp, tham nhũng nhiều; mà đời sống của dân ngày càng quẫn bách; quyên nộp [:đóng tiền để nhận chức sắc, phẩm hàm, thường là hư vị, hư hàm] sinh ra tệ [đoan].
[Vua Tự Đức] hỏi về tổng đốc các tỉnh.
- [Tâu, về tổng đốc các tỉnh] thì Lý Hồng Chương ở Trực Lệ, Tôn Thất Đường ở Thiểm Cam, đều là tướng có nho học. Lí Hãn [Hàn?] Chương ở Hồ Quảng thì là người trầm tĩnh có mưu cơ. Lưu Trường Hựu là tuần phủ Quảng Tây thì nghiêm trọng mà am hiểu việc hàng [ngũ] trận [mạc]. [Các vị đó] cùng Đan Mậu Khiêm ở Bộ Binh, Vạn Thanh Lê ở Bộ Lễ, đều là bề tôi có danh tiếng. [Chúng thần] lại nghe nói giặc ở Cam Túc làm hại đã hơn mười năm, chuyên do Tả Tôn Đường trù tính. Mùa đông năm ngoái, đã dẹp yên. Hiện nay bốn phương không xảy ra việc gì. Và dọc đường bọn thần đi, [có lưu tâm] xem về đại thế, đến khi [sứ bộ đã tới] ở Yên Kinh, [lại] xem các nhật báo [để đối chiếu], [thì thấy] đại khái của dùng trong nước hơi thiếu, nhưng sức quân vẫn mạnh. Còn như việc ở nơi quân cơ, bọn thần không thể biết được.– [Chánh sứ Phan Sĩ Thục lặp lại lần thứ hai câu cuối lời tâu] –.” (28)
.
Sau một lát chợp mắt nghỉ ngơi giấc trưa, thượng thư Nguyễn Văn Tường lại chuẩn bị áo mão để lại ra công đường làm việc. Tình hình nước Thanh cũng đau xót đến thế, phải chấp nhận nhượng địa và “tự do truyền bá “tả đạo”” , những điều mà trước đây nhà Thanh nước Trung Hoa, cũng như các nước châu Á Tế Á khác, như Triều Tiên, Nhật Bản chẳng hạn, đã quyết liệt chống lại. Nhưng phải thấy rõ là nước Thanh đang cố gắng luyện quân với súng ống Tây dương, đang mở Cục Kĩ xảo (công nghệ cơ khí). Nước Thanh đang “hoà” để thủ, trong việc thủ, có cả việc tự ra sức khởi phát, chấn hưng quân đội và công nghệ theo phương hướng “Tây học vi dụng, Đông học vi thể” .
Thượng thư Nguyễn Văn Tường tự bảo, lẽ nào nước Đại Nam ta cứ mãi bảo thủ trước công cuộc canh tân, tăng cường nội lực quân đội và khoa học – kĩ thuật?
Từ công đường, ông nhìn ra khoảng trời mùa đông cuối năm đang sáng rực nắng chiều. Ông hi vọng vào mùa xuân mới.

Hết tệp 9
(phân đoạn 1 truyện kí thứ 8)


Khởi viết truyện kí thứ tám này
vào lúc khoảng 07 giờ sáng,
ngày 17.11.2002 (13.10 Nh. ngọ, HB.2).
Viết đến dòng chữ cuối của truyện kí thứ 8 lúc 16 giờ kém 10 phút,
ngày 30.11.2002 (24.10 Nh. ngọ, HB.2).
Sữa chữa xong vào lúc 15 giờ 24 phút,
ngày 04.12.2002 (01.11 Nh. ngọ, HB.2).


TRẦN XUÂN AN


(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 33, bản dịch Viện Sử học, Nxb. KHXH., Hà Nội, 1975, tr. 161.

(2) Quốc sử quán triều Nguyễn và Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục (QTHKL.), bản dịch: Nguyễn Thuý Nga, Nguyễn Thị Lâm, hiệu đính: Cao Tự Thanh, Nxb. Tp. HCM., 1993, tr. 240.

(3) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 128 – 129.

(4) ĐNTL.CB., tập 32, sđd., 1975, tr. 309 – 310.

(5) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 198; QTHKL., sdđ., 1993, tr. 338.

(6) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 136.

(7) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 127.

(8) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 129.

(9) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 132 – 133.

(10) ĐNTL.CB., tập 32, sđd., 1975, tr. 31 – 32.

(11) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 131 – 132.

(12) ĐNTL.CB., tập 32, sđd., 1975, tr. 44.

(13) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 132 – 133, 142 – 143, 153 – 157. Bản dụ về binh lính xuất thân từ Bắc Kì như sau: “Binh chế nước ta, từ Quảng Bình trở vào Nam, hoặc ba (03) đinh lấy một (01), hoặc năm (05) đinh lấy một (01); trở ra Bắc thì bảy (07) đinh chỉ lấy một (01); chước lượng từng nơi [mà] giảm ngạch, không cầu lấy nhiều; thực muốn quân lính giỏi mà sổ quân [:quân số] đầy đủ. Thế mà quân Miền Bắc phần nhiều lười nhát, sổ quân cũng không đầy đủ, lại không bằng quân Miền Nam có thể dùng được. Như thế có phải là phép chưa tốt, hay là dùng quân chưa được người chăng? Trước kia, đời nhà Đinh định ra quân thập đạo, quân không kém một trăm vạn (1.000.000); đời nhà Trần biên đinh tráng làm quân, mà châu Hoan, châu Diễn đã đến mười vạn (100.000). Ngạch quân nhiều so với ngày nay gấp mấy, thế mà lúc bấy giờ, gọi là mạnh mẽ, ít nghe thấy trốn tránh. Tướng quân ở thập đạo, nhân đấy để phá quân nhà Tống, mà lòng quân không lìa bỏ; các tướng đời trùng hưng dùng để dẹp quân nhà Nguyên, mà các quân đều còn cả. Ai bảo là quân Miền Bắc không thể dùng được ư? Gần đây nghe nói cái tệ cuả quân ngoài Bắc có nhiều cớ: hương lí thì hạn năm lập ra khoá [tuyển quân], tha người giàu, sai người nghèo; quản suất thì [thông đồng với hương lí] đưa [người nghèo bị bắt ép ấy] vào hàng ngũ, mong [cho] đi đóng đồn, sách nhiễu trăm đường; lại có tệ tha cho [kẻ hối lộ] về nghỉ, có tệ đội tên người khác [tức người được thuê đi lính thay]. Huống chi từ quản suất trở lên, tiêu phí [thì] bắt lính cung cấp, mà kĩ nghệ tập [luyện] hay không tập [luyện] chẳng hỏi đến. Quân không huấn luyện sẵn, đến khi đánh giặc sao khỏi không thua? Bảo rằng không phải người làm ra tệ ư? Nếu nắm được điều cốt yếu, thì tệ nào chẳng trừ được. Hiện nay các tỉnh ở Bắc Kì, tổng đốc, tuần phủ đều có trách nhiệm [trẫm] giao phó cho ở ngoài biên giới [tiễu phỉ (giặc Cờ)], trẫm đương uỷ dụng, bắt phải làm cho thành công. Quân lính như thế, không từng để ý trù nghĩ, chấn chỉnh, thì lúc ngày thường cùng với ai mà giữ, lúc có việc cùng với ai mà đánh? Việc xảy ra ở Hà Nội, Ninh Bình, Hải Dương, Nam Định về muà đông năm ngoái [Ất dậu, 1873, Françis Garnier tấn công, bốn tỉnh Bắc Kì thất thủ], vết xe đổ đáng làm gương, mà há không sờn lòng ư? Nay cho các quan tổng đốc, tuần phủ, đề đốc, bố chính, án sát, lãnh binh các tỉnh Bắc Kì phải hết lòng bàn tính thế nào để chấn chỉnh một phen, có thể đổi hết thói tệ, chuyển thành quân tinh nhuệ, trẫm đều cho hết sức làm, cốt khiến cho quân lính vui lòng làm việc, sổ sách thường đầy đủ, đi đến đâu có công đến đấy, dẹp yên trộm cướp. Vài năm hay chẵn tháng, quả có thực hiệu, thì trẫm ban ơn khen thưởng hậu, không có tiếc gì. Nếu chỉ đặt lời nói hão, noi theo thói tệ, khiến cho ngày càng bỏ bễ, thì phạt nặng theo liền, quyết không tha thứ”! (sđd., tr. 142 – 143) . Tuy vua Tự Đức không trực tiếp bàn về nguyên nhân binh lính có nguyên quán Bắc Kì lười nhát, trốn tránh việc quân trong bản dụ này, nhưng rải rác ở các đoạn Thực lục khác, ta thấy rõ: Sở dĩ thực trạng quân lính Đàng Ngoài như thế là do hậu quả Trịnh – Nguyễn phân tranh suốt hai trăm năm, cụ thể là, phân biệt đối xử (hạn ngạch, tức là tỉ lệ ấn định, lấy đỗ tú tài, cử nhân ở Đàng Ngoài có phần bị khống chế, so với hạn ngạch ở Đàng Trong; quan chức dân chính và quân đội ở Đàng Ngoài đại đa số cũng là người Đàng Trong…), dẫn đến sự bất bình, thậm chí là phẫn nộ ở Đàng Ngoài. Do đó, khuynh hướng “phù Lê”, “tả đạo” càng có điều kiện xấu để nẩy sinh, kéo dài dai dẳng. Mặt khác, cũng do Đàng Ngoài, nhất là kẻ sĩ Bắc Hà, không ít là con cháu cựu thần Lê – Trịnh, vốn kiêu mạn, luyến tiếc thời vàng son xưa một cách phi lí, “nhớ nước đau lòng con quốc quốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia” một cách hết sức phản động (“Thăng Long thành hoài cổ”, “Qua đèo Ngang”…), nên triều Nguyễn không tin dùng (13*). Phải thấy rõ tác động qua lại, làm thành hệ quả dây chuyền lẩn quẩn một cách rất tại hại, từ các khía cạnh tiêu cực cuả cả hai phía (triều đình Huế và nhân dân Đàng Ngoài), dẫn đến hậu quả đáng tiếc, đáng giận trên.

(14) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 147 – 148.

(15) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 137 – 138.

(16) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 149 – 150.

(17) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 165 – 166.

(18) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 175 – 176.

(19) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 172 – 174.

(20) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 136 – 137.

(21) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 172 – 173.

(22) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 140.

(23) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 140.

(24) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 153 – 157.

(25) Trần Xuân An (biên soạn [chú thích, dịch thơ…]), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ, vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (KVPCĐT. NVT. T. VNVCNTH. & TT.), Trần Viết Ngạc sưu tầm, giới thiệu, Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển dịch thơ, giới thiệu, Nguyễn Tôn Nhan dịch nghĩa, TS. Ngô Thời Đôn hiệu đính, TS. Võ Xuân Đàn, GS. Đoàn Quang Hưng khảo luận sử học, bản in vi tính, 2000 (chưa có điều kiện xuất bản), bài thơ số 53, bản dịch nghĩa của Nguyễn Tôn Nhan và bản dịch thơ của Trần Xuân An, tr. 317 – 323. Nhân đây, xin lưu ý: Tác giả (tôi, TXA.) không khẳng quyết thân phụ của Lê Đình Dao có nhận định như thế về phong trào Tây Sơn nói chung, Quang Trung Nguyễn Huệ nói riêng. Đó chỉ là sự suy đoán, có thể xem như một chi tiết hư cấu. Cũng xin nói lại cho rõ: Nguyễn Huệ là một nhân vật lịch sử vĩ đại, vì hai lí do sau đây: ((a)) Nguyễn Huệ đã đáp ứng được yêu cầu lịch sử bức thiết, đó là yêu cầu thống nhất hai miền Đất nước (Đàng Trong – Đàng Ngoài); ((b)) Nguyễn Huệ là lực lượng thứ ba (lực lượng trung gian), đập tan được hai lực lượng Trịnh và Nguyễn, vốn đối nghịch nhau, gây nên cuộc chiến tranh tàn khốc “Trịnh – Nguyễn phân tranh”; đó cũng là yêu cầu lịch sử về lực lượng cầm quyền sau khi hàn gắn vết thương sông Gianh, thống nhất hai Đàng (bởi lẽ, nếu chuá Trịnh đánh tan chuá Nguyễn, nhân dân Đàng Trong sẽ bị đàn áp, trả thù; ngược lại, nếu chuá Nguyễn đánh tan chuá Trịnh, nhân dân Đàng Ngoài sẽ bị trả thù, đàn áp). Xin xem thêm bài thơ “Sáng tháng giêng ở gò Đống Đa” (phần cuối sách). Tuy vậy, với quan điểm lịch sử – cụ thể, về công lao khai phá đất phương nam, vai trò lịch sử của chín (09) chuá Nguyễn và sáu (06) vua Nguyễn thời chính triều (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Kiến Phúc, Hàm Nghi), tôi không hề phủ nhận và cũng thể phủ nhận. Tôi cũng khẳng định: vai trò lịch sử của triều Nguyễn đã thật sự chấm dứt, thậm chí trở thành phản quốc, là từ ngày Đồng Khánh lên ngôi cho đến ngày Bảo Đại phải thoái vị (ngụy triều nhà Nguyễn: 1885 – 1945).

(26) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 141.

(27) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC.), tập 1, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 56 – 58.

(28) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 146 – 147.

(29) Nguyễn Đắc Xuân (biên soạn), Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành, bài của Đào Duy Anh trong Bulletin des amis du vieux Huế (1941), Bùi Trần Phượng dịch, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 25.

(30) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 157.

(31) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., 1974, tr. 59 – 60, 307.

(32) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 164.

(33) Câu đối của Nguyễn Văn Tường do nhà thơ Lương An sưu tầm. Xin xem: KVPCĐT. NVT. T. VNVCNTH. & TT., bản in vi tính, 2000 (chưa có điều kiện xuất bản), bản dịch nghĩa của Nguyễn Tôn Nhan và bản dịch vần của Trần Xuân An, tr. 77 – 79.


Soạn xong phần chú thích
vào lúc 19 giờ 24 phút,
ngày 06.12. 2002 (03.11 Nh. ngọ HB.2).


TRẦN XUÂN AN

Phụ chú của chú thích 13 thuộc truyện kí thứ tám:

(13*) [a] Xin đừng hiểu Bà huyện Thanh Quan đồng cảm với những người Chăm (““chợ” mấy nhà”), khi dừng bước ở Đèo Ngang, vốn là biên giới Đại Việt – Chăm-pa thuở nào. Cũng đừng đẩy xa ý tưởng đó, rồi cho rằng, người Đàng Ngoài với người Chăm có chung một kẻ thù là các chuá Nguyễn, vua Nguyễn, khi cảm nhận hai câu luận và hai câu kết của bài “Qua Đèo Ngang” :

Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta


Đặc biệt là câu thơ “một mảnh tình riêng, ta với ta”! Ấy chỉ là cảm xúc khi chỉ còn mình đối diện với chính mình trong nỗi cô đơn. Cũng đừng đẩy xa hơn nữa ý tưởng đó, để kết luận Bà huyện Thanh Quan vốn có gốc gác là Chăm, tuy không ít người Đàng Ngoài đích thực là người Việt gốc Chăm (người Chăm phải ra Đàng Ngoài nhập cư, từ thời Lý đến thời Nguyễn*).
Tôi nghĩ thi sĩ đài các, trang trọng rất mực trong ngôn từ thơ ca này có thể bị ám ảnh về biên giới lịch sử bởi câu sấm kí của Trạng Trình: “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” (Đèo Ngang một dải vạn đời dung thân), khi chuá Nguyễn Hoàng đến xin gặp Trạng Trình để tham khảo ý kiến. Mặc dù trong thực tế, sông Gianh mới là biên giới Đàng Trong – Đàng Ngoài, nhưng trong tâm thức người Đàng Ngoài, Hoành Sơn (Đèo Ngang) mới là biên giới có tính lịch sử.
Phải liên hệ với các bài thơ khác của Bà huyện Thanh Quan, nhất là “Thăng Long thành hoài cổ”, khi cảm thụ “Qua Đèo Ngang”.
Chữ “quốc” vốn có nghĩa là “[Đất] nước” (Tổ quốc, quốc gia), nhưng dưới chế độ phong kiến, người ta bị nhồi sọ, đồng nhất Đất nước, Tổ quốc với một triều đại do một hoàng tộc trị vì, do đó “quốc” cũng có nghĩa là “triều đại” (quốc tính [:họ của vua, của hoàng tộc], quốc thích [bên ngoại hoặc bên vợ của vua]…)! Hoặc, có người đồng nhất Tổ quốc, quốc gia với kinh đô của một triều đại hay của những triều đại nối nhau đóng đô ở đó. Nguyễn Du có câu thơ: “Thập tải phong trần khứ quốc xa” (Mười năm gió bụi rời khỏi kinh thành xa xôi) (U cư, Thanh Hiên thi tập). Hai câu thơ của Bà huyện Thanh Quan trong bài “Qua đèo Ngang”, “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc; Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” , rõ ràng là thể hiện nỗi lòng hoài Lê, đồng nhất triều đại Lê – Trịnh với Thăng Long (Hà Nội), với Tổ quốc (mặc dù sĩ dân Bắc Hà đều biết thể chế vua Lê bù nhìn, ươn hèn và chúa Trịnh lấn bức, chuyên quyền là một biến thái phi đạo lí).
Để có một ý niệm rõ ràng hơn về giai đoạn lịch sử cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, xin liên hệ với thơ văn của một số ít văn nghệ sĩ Miền Nam (1954 – 1975 – 2004) thuộc dạng “hoài cổ”, nhất là các nhà văn, nhà thơ Việt kiều lưu vong thuộc “trường phái” đó hiện nay (1975 – 2004), ở Mỹ và ở các nước Âu Mỹ khác. Họ cũng dùng từ “mất nước” (vong quốc) một cách rất trái ngược!!! Xin nhấn mạnh, không phải văn nghệ sĩ Miền Nam, Việt kiều nào cũng “hoài cổ”. Tuy nhiên, trong số ít đó, có nhiều cây bút thật sự có tài và cũng không phải không có tri thức sử học (cỡ như Phạm Thái, Bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát và một số người chạy theo Lê Chiêu Thống…). Tôi xin rút ra một kết luận: Vấn đề không phải là tri thức, tài năng, mà chính là tâm thế cá nhân, quan điểm có tính chủ quan của người sáng tác. Tâm thế, quan điểm lại do chỗ đứng và quyền lợi quy định hoặc do sức-ép-bên-ngoài-bản-thân chi phối. Chỗ đứng và quyền lợi lại bị trói buộc bởi hoàn cảnh bản thân, gia đình, vốn bị cuốn theo trong cơn bão táp lịch sử, hoặc do sự tự chọn lựa trước tình huống lịch sử. Mặc dù vậy, tôi không có ý đánh đồng và cũng không thể đánh đồng bản chất vết thương sông Gianh (nội chiến giữa hai tập đoàn phong kiến đồng bào) với vết thương sông Bến Hải (chiến tranh chống thực dân, đế quốc Pháp – Mỹ, “tả đạo”…). Trong hai trường hợp này, chân lí và sự thật lịch sử hoàn toàn (hay ít nhiều) trái ngược với cái gọi là “chân lí và sự thật lịch sử” trong tác phẩm văn nghệ. Các tác phẩm ấy chỉ phản ánh trung thực tâm trạng của các tác giả cùng một bộ phận nhân dân thất thế, suy vong, và tiếc thay, lại cuồng trung với triều đại, chế độ ươn hèn, phi nghĩa, lưu vong! Nói theo Karl Marx khi ông nhận định về A. M. L. de Lamartine, đó là những “kẻ phản động có lời thơ tao nhã” , hoặc một ai đó hay nói: “tiếng thơ của giai cấp suy tàn” .
Nhìn riêng về văn học Đàng Ngoài giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, ai cũng biết có một bộ phận rõ ràng là đại biểu của tiếng thơ, giọng văn thuộc về giai cấp quý tộc Đàng Ngoài suy tàn. Tuy nhiên, khác với họ, lịch sử Việt Nam và thế giới đã cho thấy những nhà văn, nhà thơ, kể cả nhà sử học, triết gia đã thoát li khỏi giai cấp, thành phần xuất thân để phản ánh trung thực thời đại: Karl Marx, F. Engels, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Khuyến, kể cả Nguyễn Du (qua Truyện Kiều, vẫn khẳng định tính chính thống của triều Nguyễn), và Phan Huy Vịnh (dịch giả Tì bà hành)… Đó là những nhân vật lịch sử, triết gia, thi sĩ, dịch giả tiêu biểu cho khuynh hướng tiến bộ, tích cực, tuy mỗi người đều có những hạn chế do bản thân hoặc do thời đại quy định.

(13*) [b] Không phải chỉ khi đề cập đến Gia Long (Nguyễn Ánh), mới cần nhận thức theo quan điểm lịch sử - cụ thể, nhưng không thể không nhấn mạnh như thế khi cần làm sáng tỏ, thoả đáng thêm về vấn đề này.
Chủ quyền Đất nước dưới chế độ quân chủ cũng là một hình thức quan hệ sở hữu phong kiến (Đất nước và thần dân là tài sản và tôi tớ của hoàng tộc cầm quyền, nối đời thừa kế). Do đó, Nguyễn Aằnh (Gia Long) đánh đổ triều Tây Sơn (ba anh em Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Toản) là để giành lại cái gọi là quyền sở hữu Đất nước Đàng Trong và thần dân của dòng họ mình, và thừa kế luôn cả Đàng Ngoài mà dòng họ ông ta có công trung hưng (vai trò công thần của Nguyễn Kim). Chủ quyền Đất nước và nhân dân được xác lập theo quan hệ sở hữu phong kiến về tài sản và nô bộc là một quan niệm phản động, cực kì phản động, nếu đứng ở giác độ dân chủ để phê phán. Tuy nhiên, ở cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Ánh vẫn chính nghĩa theo quan niệm phong kiến! Và cũng cần khẳng định rõ: mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh và cố đạo thực dân Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) chỉ là quan hệ lợi dụng lẫn nhau mà thôi! Sau khi nắm được ngai vàng hoàng đế, chính Gia Long (Nguyễn Ánh) đã hạn chế sự bành trướng Thiên Chúa giáo! Như thế, trên cơ sở đó, có thể có một nhận định: Quang Trung (Nguyễn Huệ) đáp ứng được yêu cầu bức thiết của lịch sử là phải thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài (mặc dù công lao ấy phần nào còn bị hạn chế do tình trạng tam phân giữa ba anh em Tây Sơn). Tuy nhiên, Gia Long (Nguyễn Ánh) không phải không chính nghĩa, xét theo quan hệ sở hữu phong kiến về vương quốc, thần dân; và Gia Long còn kế thừa cả sự nghiệp thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài của Quang Trung một cách tốt đẹp. Đó không phải là một nhận định "ba phải", mà xét trên cơ sở sự thật lịch sử và xét theo quan điểm cụ thể - lịch sử tiên tiến, khoa học nhất của chúng ta, trong thời đại dân chủ hiện nay. Mặc dù đối với chúng ta hiện nay, chế độ phong kiến nói chung (chứ không phải chỉ riêng triều Nguyễn) vốn đã trở nên quá lạc hậu, cực kì phản động, "một đi, không bao giờ trở lại", nhưng cũng phải công bằng, thỏa đáng trong việc nhận định lịch sử.
Nói một cách giản dị, Nguyễn Ánh không dễ dàng gì để mất vào tay Tây Sơn sự nghiệp suốt hai trăm năm của dòng họ ông ta. Đó là sự nghiệp chín chuá Nguyễn đã lãnh đạo nhân dân Đàng Trong khai phá đất phương nam, từ Phú Yên đến Cà Mau!
Cũng nói một cách giản dị, nếu lấy tiêu chí dân chủ hiện nay, nhất là dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực sở hữu ruộng đất (sở hữu toàn dân hay còn gọi là công hữu), để nhận định về chế độ phong kiến quân chủ ... rồi trách cứ, thì chẳng khác nào trách cứ sao Nguyễn Du không sáng tác Truyện Kiều trên máy vi tính và phát hành trên mạng VnExpress hoặc Cinet! Nhưng có người sẽ vặn lại tôi: Đâu rồi quan điểm so sánh đồng đại? Từ năm 1848, giữa thế kỉ XIX, Karl Marx và Fridrich Engels đã xuất bản Tuyên ngôn Đảng Cộng sản kia mà! Tôi chỉ biết bảo người ấy nhìn ra thế giới ngay vào thời điểm này: Hiện còn bao nhiêu nước theo chính thể quân chủ lập hiến (lập hiến nhưng vẫn còn vua chuá!)? Còn năm 1848, cách thời điểm Gia Long lên ngôi (1802) đến bốn mươi sáu (46) năm! Nếu chọn thời điểm so sánh tương đồng, phải là 1789, năm cách mạng tư sản Pháp nổ ra và cũng là năm Quang Trung đánh tan hai mươi vạn quân Thanh, triều đại vua Lê - chuá Trịnh hoàn toàn tiêu tan; và lúc đó, Nguyễn Ánh vẫn còn trường kì chiến đấu khôi phục. Nhưng cách mạng tư sản Pháp tồn tại không bao lâu; rồi chính giai cấp phong kiến Pháp cũng xé toạc Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân quyền 1789 * để phục hồi đế chế quân chủ! Vả lại, nên hiểu giới hạn tầm nhìn thời bấy giờ, cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, trong điều kiện chung là thông tin liên lạc còn hạn chế. Do đó, giới hạn tầm nhìn thời bấy giờ là chỉ trong phạm vi khu vực Đông Nam Aằ và rộng hơn, là phạm vi châu Á... Hơn nữa, tầm nhìn còn bị quy định bởi bao nhiêu điều khác, nhất là nền tảng dân trí toàn xã hội! Hiểu như thế, mới thật là lịch sử - cụ thể. Không nên kéo lùi lịch sử hiện tại vào sự lạc hậu (tụt hậu), cũng không nên cưỡng bức lịch sử quá khứ phải thật dân chủ xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu Đất nước, tức là quyền làm chủ Đất nước (đúng nghĩa là dân chủ đích thực, chứ không phải trò lừa từ ngữ *)

[* Đây không phải chỗ để đề cập đến các quyền dân chủ cụ thể khác, về chính trị, xã hội, văn hoá...].

Ngoài ra, tưởng cũng cần nhắc lại một nhận định xác đáng và công bằng của nhiều nhà nghiên cứu sử học về Gia Long Nguyễn Ánh: Ông là một con người có nghị lực mạnh mẽ, vị vua sáng nghiệp từ hai bàn tay đã trắng (có khi quân lính không còn một đội, lương thực không có để dùng). Ông chỉ có một điều kiện thuận lợi, ấy là lòng trung thành của nhân dân Đàng Trong đối với các chuá Nguyễn tiền bối.
Ở chú thích này, tôi chỉ nhấn mạnh đến nghị lực mạnh mẽ hay còn gọi là đức tính kiên cường của Nguyễn Ánh, nhất là sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, từ Nam Quan đến Cà Mau. Và khi so sánh tổng bí thư Lê Duẩn với Quang Trung, Gia Long ở ba khía cạnh đó, tôi hiểu "so sánh nào cũng có sự khập khiễng".

[ 2 phụ chú này vốn là chú thích số 7b và 11 ở bài thơ SÁNG THÁNG GIÊNG Ở GÒ ĐỐNG ĐA – TXA. ]

04.HB3
& 26.02.HB4 (07.02 G. thân HB4).

TXA.


HẾT TỆP 9
(PHÂN ĐOẠN 1 TRUYỆN KÍ THỨ 8)

Xin xem tiếp TỆP 10
(phân đoạn 2 truyện kí thứ 8)
thuộc tập II bộ sách “PCĐT. NVT.”